LTS: Những bài vở trên đây không nhất thiết là quan điểm của diễn đàn. Mục đích để đóng góp tài liệu tham khảo, tài liệu lịch sử làm phong phú thêm trí tuệ, làm sáng tỏ sự thật, vạch trần tội ác tập đoàn việt gian Cộng Sản. tội ác tên Giặc Hồ Chí Minh và bè lũ tay sai việt gian bán nước đã cố tình bưng bít, dấu kín, xuyên tạc lịch sử Việt Nam, giết hàng chục triệu người dân vô tội, bỏ tù hàng triệu quân cán chính VNCH, bán đất dâng biển, làm nô lê cho Tàu, Nga..v.v..
" Hiểu một thời đại nghĩa là phải lấy con tâm và con mắt lịch sử, nghiệm qua các thời đại để mà đứng trên nền tảng với điều kiện đó để mà hiểu thời đại đó.""[HH-trang45]
" Để phục hưng và phục hoạt, phải lấy một con mắt nghiêm ngặt Việt, đứng siêu nhiên trên lập trường Việt, thi thiết bằng những chính sách và kế hoạch siêu nhiên và nghiêm ngặt, có một thái độ nghiêm ngặt và siêu nhiên lịch sử Việt."[HH-trang45]



HOME-Tro Ve Trang Chinh




Saturday, February 27, 2010

Trần Quốc Kháng-Nhiệm Vụ Của Điệp Viên Comintern Qua Cuốn Sử (HCM)

Nhiệm Vụ Của Điệp Viên

Comintern Qua Cuốn Sử

Công Và Tội Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh

Và Đảng CSVN’

Trần Quốc Kháng (1)

Ngày 3-2-2010 vừa qua, đảng giặc VC tổ chức buổi lễ ‘Thượng Thọ’ 80 năm tuổi. Tại Hà Nội, Tổng Bí Thư VC Nông Đức Mạnh, đọc diễn văn dài lê thê, ca ngợi ‘công đức CUỘI’ của quốc tặc Hồ Chí Minh (HCM).

Bất chấp Nông Đức Mạnh ‘nói như VẸM’. Bất chấp đảng giặc VC tuyên truyền xảo trá. Bất chấp các ‘sử gia ĐỎ’ xuyên tạc lịch sử: SỰ THẬT vẫn là SỰ THẬT.

Sử gia La Ma Titus Livy (59 B.C. ~ A.D. 17) nói không sai: ‘SỰ THẬT chỉ có thể bị CHE KHUẤT, chứ không bao giờ bị huỷ diệt’. Còn người Việt thì có câu ‘cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra’ --- nghe có vẻ đơn sơ, nhưng rất gợi hình và chí lý.

Thật vậy. Ngày xưa, có nhiều sự thật lịch sử, nhất là tội ác của HCM và đảng CSVN bị che khuất. Vì quyền tự do ngôn luận của dân chúng bị đảng giặc VC tước đoạt.

Nhưng hiện nay, dân chúng VN đã có quá nhiều kinh nghiệm đau thương với VC. Ai có lương tri mà lại không nhìn thấy sự thật: HCM và đồng đảng là bọn ‘phản dân hại nước’.

Thậm chí, người ta còn biết, HCM được dưỡng dục ở trường “Thợ Thuyền Phương Đông” tại Moscow. Sau khi được THUẦN HOÁ, trở thành cán bộ Bô-Xê-Vích (Bolshevist), hắn đảm trách nhiệm vụ của ĐIỆP VIÊN Comintern --- sử dụng nước Việt và xương máu người Việt để phục vụ cho nền an ninh của Liên Xô qua chiêu bài XHCN. Đây là cội nguồn, khởi sự cho muôn vàn đau thương mà dân tộc VN phải gánh chịu từ năm 1945 đến nay (2008), chưa chấm dứt.

‘DI SẢN’ do quốc tặc HCM để lại trên đất Việt là đảng giặc VC. Hiện thời, chúng hành xử giống như tập đoàn ‘QUAN THÁI THÚ’ của giặc Tàu thời xưa. Chỉ có điều khác biệt, chúng là ‘người Việt’ mang nhãn hiệu CỜ MÁU SAO VÀNG. Nếu không có biến động nào lật ngược tình thế, VN sẽ trở thành Tây Tạng thứ 2 --- chỉ còn là vấn đề thời gian.

Dù sao, trước vấn đề lịch sử, nhìn sâu đậm, nhìn chính xác và có khả năng tổng hợp từng giai đoạn, với chứng cớ và phán xét công bình thì dĩ nhiên, hàng đầu vẫn là các sử gia chân chính.

Dựa theo ‘tiêu chuẩn’ ấy, chúng tôi xin nêu lên nhận xét và cảm nghĩ khi tìm hiểu sự thật lịch sử qua cuốn ‘Công Và Tội Của Chủ Tịch HCM Và Đảng CSVN 1945-2006, Lịch Sử Cận Đại’ --- do Giáo Sư, Tiến Sĩ Sử Học, Hoàng Ngọc Thành biên soạn.

Vì cuốn sử dầy 716 trang, có quá nhiều biến cố quan trọng, liên tiếp xẩy ra trong 61 năm trời. Nên chúng tôi không thể nào nêu lên hết tất cả vấn đề trong cuốn sử, mà chỉ đề cập đến những sự kiện ‘nổi bật’, hay ‘bài học lịch sử’, hữu ích cho công cuộc đấu tranh, giải phóng đất nước thoát khỏi ách nộ lệ của Thực Dân Đỏ Mafia VC.

Vài Điểm Sơ Khởi

Đọc qua tựa đề của sách, thể nào cũng có độc giả không hài lòng về cụm từ ‘Chủ Tịch HCM’. Hoặc thắc mắc, HCM là kẻ TỘI ĐỒ đối với Dân Tộc VN thì hắn có ‘CÔNG’ với ai?

Dù sao, chúng tôi nhận thấy, GS Thành viết như vậy vì ở vị thế của sử gia. Ông cần tỏ thái độ khách quan, phán xét công bình và giữ lịch sự trước công luận. Còn vấn đề ‘CÔNG’ của HCM thì tác giả đã giải thích trên trang 555 của cuốn sử:

‘Nếu nói “Công”, HCM có “Công Lớn” với Liên xô-Stalin-Trung Cộng-Mao Trạch Đông’.

Đó là điều dễ hiểu. Như đã trình bầy ở trên, HCM được huấn luyện ở trường “Thợ Thuyền Phương Đông” tại Moscow. Sau khi được THUẦN HOÁ, HCM trở thành cán bộ Bô-Xê-Vích (Bolshevist). Hắn đảm trách nhiệm vụ của ĐIỆP VIÊN Comintern, phục vụ cho nền an ninh của Liên Xô là điều ‘hiển nhiên’.

Thật vậy. Cắn cứ vào cuốn ‘Why Vietnam’ của Archimedes L.A. Patti (điệp viên OSS, tiền thân của CIA), GS Thành tóm lược việc ông Patti gặp Stephane Solosieff, đại diện của Liên Xô tại Hà Nội năm 1945. Trên trang 259, GS Thành ghi lại lời của Stephane Solosieff đã xác nhận:

‘Liên Xô đã huấn luyện cho HCM và trong bao nhiêu năm, ông là một điệp viên của Comintern và mới vừa đây HCM là một đại diện cộng sản do Mạc Tư Khoa hướng dẫn’.

Còn về tổ chức và nhiệm vụ của Comintern, GS Thành đã giải thích trên trang 125:

‘Về bình diện quốc tế có ảnh hưởng đến dân Việt là trong tháng 3-1919 lãnh tụ cộng sản Lenin cho thành lập một tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản xô viết, tên tiếng Nga là Communestcheskig International, tức quốc tế cộng sản, gọi tắt là Comintern hay Đệ Tam Quốc Tế’ ……

…. ‘Mục đích của Comintern là phổ biến, tuyên truyền, vận động phát triển chủ nghĩa cộng sản. Họ tuyển mộ, lôi cuốn những người các xứ khác có tinh thần xã hội, khuynh tả rồi huấn luyện trở thành những cán bộ phục vụ hữu hiệu cho những quyền lợi quốc gia của nhà nước xô viết.

Vì vậy, HCM luôn luôn tuân thủ mệnh lệnh của điện Kremlin. Sự thật này có thể kiểm chứng dễ dàng qua bài “Đảng CSVN Ra Đời Và Cương Lãnh Đầu Tiên Của Đảng” --- do VC phổ biến trên Internet (20-6-2006):

Vào mùa thu năm 1929, HCM nhận chỉ thị của điện Kremlin, đến Hương Cảng đặt kế hoạch thống nhất các phe nhóm, hay ‘hệ phái’ CS. Sau khi xếp đặt xong, HCM triệu tập hội nghị, thành lập đảng CSVN ngày 3-2-1930 theo lệnh của kremlin ban hành.

Như vậy thì rõ ràng, HCM và đồng đảng chỉ là tập đoàn tay sai ‘của Liên-Xô, do Liên-Xô, vì Liên-Xô’. Chính vì vậy mà chúng sử dụng ‘núi xương sông máu’ của dân tộc VN, đánh Pháp chống Mỹ cho Nga Tàu. GS Thành đã nêu lên chứng cớ xác thực trên trang 575:

‘Cố tổng bí thư Lê Duẩn, cầm quyền khá lâu cùng với Lê Đức Thọ, từ 1957 đến chết 1986 đã từng tuyên bố là ‘đánh Mỹ cho Liên Xô, Trung Quốc’. Sự thật lịch sử là như thế đấy, cộng sản động viên lòng yêu nước để đánh Mỹ cứu nước nhưng thật ra là để phục vụ nền an ninh và sự phát triển của 2 cường quốc cộng sản đàn anh. Người Việt miền Bắc đã trở thành người lính ủy nhiệm của phe cộng sản, dùng vũ khí cộng sản để đánh giết đồng bào Việt miền Nam’.

Thiết tưởng, chỉ cần vài điểm ‘sở khởi’ nêu trên cũng đủ cho thấy mức đội trung thực của cuốn ‘Công Và Tội Của Chủ Tịch HCM Và Đảng CSVN’.

Ngoài ra, trong phần ‘Quyền Lợi Quốc Gia’ trên trang 9, có điểm ‘nổi bật’ là lời ước nguyện của GS Thành:

‘Để cho thế hệ ngày nay và mai sau có một sự hiểu biết “cân bằng” về giai đoạn lịch sử 1945-2006. SỰ THẬT lịch sử có sức mạnh vô song góp phần giải phóng dân tộc’.

Hiển hiện, đây cũng là ước vọng của đại khối đồng bào trong và ngoài nước, đang trông chờ ngày quê hương thoát khỏi ách nộ lệ Thực Dân Đỏ Mafia VC.

Ngay phần đầu của cuốn sử đã cho thấy, GS Thành tham khảo hàng trăm tài liệu --- bao gồm sách sử, hồi ký, ký sự, tuỳ bút, báo Việt ngữ và ngoại ngữ v.v. --- để đối chiếu, lý luận và tổng hợp, nhằm bảo đảm cho sự kiện lịch sử được trung thực. Trong đó có rất nhiều sách, báo và tài liệu do phía VC phát hành mà GS Thành đã nhờ thân hữu, tìm mua ở VN, gởi sang Mỹ cho ông.

Vì đảng giặc VC độc quyền nắm giữ ngành truyền thông, xuất bản sách báo, truyền thanh, truyền hình, kể cả quyền tự do sinh hoạt trên Internet cũng bị kiểm soát gắt gao, nên việc biên soạn lịch sử của GS Thành, đã gặp khó khăn vô cùng. Thế nhưng, ông đã vượt qua chặng đường ‘chông gai’ ấy.

Trong phần ‘Cảm Tạ’ ở trang 7, chúng tôi nhận thấy nhiều thân hữu ở VN đã giúp GS Thành ‘làm tròn nghĩa vụ’ --- viết cho sự thật lịch sử --- đúng theo tiêu chuẩn của ông nêu lên: ‘Lịch sử là phải tìm ra SỰ THẬT, dù là tương đối, tùy hoàn cảnh và khả năng’.

Nói khái quát, cuốn sử này được biên soạn rất công phu. Đây là nguồn tài liệu phong phú và có giá trị, góp phần không nhỏ, giúp độc giả --- nhất là các Thế Hệ Trẻ --- tìm hiểu sự thật, đâu là CHÍNH, đâu là TÀ? Kẻ nào can trọng tội với Tổ Quốc và Dân Tộc VN trong lịch sử cận đại?

Thực Chất Của

Điệp Viên Comintern HCM

Và Đồng Đảng

Điểm quan trọng hàng đầu trong cuốn sử cận đại là Thực Chất Của Điệp Viên HCM Và Đồng Đảng. Tại sao?

Như đã trình bầy ở trên, chúng tôi xin thưa: HCM và đồng đảng là cội nguồn gây ra muôn vàn đau thương mà Dân Tộc VN phải gánh chịu từ năm 1945 đến nay, chưa chấm dứt. Thế nhưng, đảng giặc VC vẫn ngoan cố, vẫn CUỒNG TÍN, vẫn tôn thờ Mác-Lênin và quốc tặc HCM --- trong khi mẫu quốc Sô-Viết và các nước CS Đông Âu đã quẳng ‘Thánh Tổ’ Mác-Linin vào ‘thùng rác lịch sử’ từ đầu thập niên 1990.

Về bản chất của HCM thì trên trang 418, GS Thành đã nêu lên thí dụ cụ thể cho thấy, hắn có khả năng ‘giả nhân giả nghĩa’ thiện nghệ.

Vì sự thật cho thấy, HCM có nhiều nhân tình và ‘con rơi, con rụng’, điển hình như Nguyễn Tất Trung, Nông Đức Mạnh, và chính tức lập gia đình với bà Tăng Tuyết Minh ở bên Tàu. Thế nhưng, trong lá thư gửi cho BS Vũ Đình Tụng, bộ trưởng y tế VC, khi con trai BS này tử trận, HCM đã viết:

“Tôi được báo cáo rằng con giai của ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ Quốc. Ngài biết rằng tôi không có gia đình cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên hình như tôi đứt một đoạn ruột”.

Quả thật, khả năng gian dối của HCM ‘vượt kỷ lục’. Vì vậy, GS Thành mới viết tiếp:

‘Trong lịch sử VN có ai giỏi nói dối, dối trá hơn chủ tịch HCM không? Làm điệp viên cho Comintern, ông phải nói dối với cả một trăm tên [như Lý Thuỵ, Thầu Chín, Lin, Già Thu, Văn Ba, Nguyễn Ái Quốc v.v.]. Dối trá thành bản chất của con người ông.

Khi viết đến trang 554, GS Thành nêu lên nhận định:

‘Về tệ sùng bái cá nhân HCM tiến bộ hơn hai thầy Stalin-Mao Trạch Đông là tự mình viết sách ca tụng cá nhân của ông [dưới bút hiệu Trần Dân Tiên và T.Lan]. Kế đến là ông dối trá rất giỏi, khi cần cười thì cười, khi cần khóc thì khóc, tùy hoàn cảnh như đã nói với thư ký riêng Vũ Đình Huỳnh.

Về tình người, ông vô luân, coi những cô gái trẻ đẹp mà ông đã từng ôm ấp là chỉ để giữ “thăng bằng tâm sinh lý” cho ông, chứ không quan tâm gì đến số phận của họ và các con họ có thể có với ông, chưa kể ông chịu trách nhiệm về vụ ủy viên bộ Chính Trị và bộ trưởng Công An Trần Quốc Hoàn bị tố cáo hãm hiếp, giết cô Nông Thị Xuân và 2 cô em rồi dàn cảnh tai nạn’.

Không hiểu, vì bẩm sinh, hay được huấn luyện ở trường “Thợ Thuyền Đông Phương”khả năng ‘giả nhân giả nghĩa’ và gian ác của HCM lại đạt đến mức tột đỉnh như vậy? Phẳng chăng, đó là “đỉnh cao chói lọi” GIAN MANH mà ‘nữ VẸM’ Dương Thu Hương muốn thêu dệt trong tác phẩm của đương sự?

Về việc làm của HCM thì trên trang 132 của cuốn sử, có đoạn GS Thành đã nêu lên sự kiện, ảnh hưởng trầm trọng đến vận mệnh của đất nước:

‘Trước 1945 nhân vật Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh đã từng mang cả trăm tên, xưng tên nào cũng như thật, mà làm trên dưới 10 nghề vặt. Nghề thật của ông HCM là làm cán bộ ăn lương và được đài thọ các chi phí khác bởi Comintern tức Đệ Tam Quốc Tế được lập ra để phục vụ nền an ninh của Liên Bang Xô Viết thời ấy’.

Vì biết rõ HCM làm tay sai cho Comintern và lãnh đạo Mặt Trận Việt Minh nên Hoa Kỳ không công nhận Chính Phủ Việt Minh năm 1945 và không gây áp lực khi thực dân Pháp trở lại VN. Mặc dù năm 1945, Hoa Kỳ không ủng hộ chủ nghĩa thực dân ¾ trong đó có tham vọng ngông cuồng của Pháp tái chiếm Đông Dương.

Nhưng về sau, vì lo ngại CS lan tràn, nên Hoa Kỳ lại viện trợ cho Pháp --- dùng quân đội Pháp ngăn chặn làn sóng đỏ lan tràn vào VN. Điều này chứng tỏ, vì HCM làm tay sai cho Comintern, lãnh đạo cuộc kháng chiến ‘THEO ĐỊNH HƯỚNG XHCN’, nên thảm cảnh chiến tranh máu lửa mới kéo dài ròng rã suốt 8 năm trời (1946-1954).

Nếu không có CS hoạt động, chắc chắc việc đấu tranh giành độc lập, thành công nhanh chóng. Vì lẽ, sau Thế Chiến Thứ 2, chủ nghĩa Thực Dân đã bước vào giai đoạn cáo chung. Nhiều thuộc địa của thực dân Anh và Pháp, đã giành lại độc lập mà không cần đến giải pháp quân sự.

Trong tiểu mục ‘Pháp Chưa Đi Tàu Cộng Đã Đến’ của cuốn sử --- sau khi nêu lên những chứng cớ xác thực --- GS Thành nêu lên nhận định trên trang 474:

‘Đất nước được đặt dưới sự sắp xếp của hai anh [Liên Xô và Tàu Cộng] người dân Việt trở nên lính cộng sản tiền phương tại Đông Nam Á. Thế lực và ảnh hưởng của phe cộng sản nhất là Trung Cộng, lấy Bắc Việt làm tiền đồn bảo vệ họ tại phía Nam và bàn đạp phát triển nữa về hướng Đông Nam Á….’.

Thật ra chủ tịch HCM và đảng cộng sản đã thực hiện một vụ lường gạt chính trị vĩ đại nhất trong lịch sử VN. Họ thiết tha kêu gọi toàn dân đoàn kết chiến đấu và hy sinh để giành lại độc lập. Dân tộc đã chiến đấu và hy sinh, vì nền độc lập nhưng họ đã đổi hướng lòng yêu nước của người Việt và thực thi một chế độ thực dân nô lệ kiểu mới …’.

Nhớ lại năm 1950, HCM sang Bắc Kinh cầu viện, rồi cho đồng đảng đón chào hàng ngàn cố vấn Tàu Cộng vào VN. Nhiều tài liệu ngoại ngữ cho biết là ‘trong năm 1951, số cố vấn Trung Cộng đạt đến 5000 người, rồi qua năm sau 1952 lên đến 8000 người có mặt và tham dự các ngành của chính phủ HCM và đảng cộng sản VN, và đến năm 1952, 80,000 tấn vũ khí đã được chuyển qua quân đội nhân dân VN, đi tác chiến thường có cố vấn đi kèm’.

Nói cách khác là tất cả guồng máy của ‘Đảng và Nhà Nước’, từ trung ương đến địa phương, đều có cố vấn Tàu Cộng, kể các buổi họp của Bộ Chính Trị, cũng có Đại Sứ Lã Quý Ba cùng phái đoàn cố vấn Trung Cộng.

Cũng trong chuyến đi cầu viện nêu trên, khi HCM đến điện Kremlin gặp Stalin. Hắn chỉ vào 2 chiếc ghế, một ghế là của địa chủ, một ghế khác là của nông dân, rồi hỏi HCM ngồi vào ghế nào?

Vì vậy, sau khi về nước, HCM vâng lời Stalin và Mao, cho đồng đảng mở chiến dịch ‘Chỉnh Huấn’, ‘Giảm Tô’ và thảm khốc nhất là chính sách “Cải Cách Ruộng Đất’ --- sỉ nhục, hành hạ, tra tấn, rồi sát hại, hoặc tống giam hàng trăm ngàn lương dân sau khi cáo buộc các nạn nhân là ‘địa chủ bóc lột’.

Qua sự kiện lịch sử nêu trên, vấn đề được nêu lên: Miền Bắc VN do HCM lãnh đạo, có thực sự Độc Lập không? Hay thực sự chỉ là chư hầu, tận tuy phục tòng mệnh lệnh của Nga Tàu?

Vì vậy, khi luận về ‘CÔNG’ và tội của HCM, GS Thành đã nêu lên nhận định trên trang 555:

‘Tội nặng nhất của chủ tịch HCM là du nhập chủ nghĩa cộng sản vào đất nước, đưa dân tộc vào không tưởng với biết bao tại họa từ 1950 cho đến nay 2008. Ông phạm tội ác chống nhân loại với việc tra tấn, nhục hình, xử tử man rợ hàng nghìn nạn nhân mà đa số bị oan. Ông thực thi chính sách tước đoạt hết tài sản của “nhân dân”, đày đọa dân tộc trong một chế độ nô lệ kiểu mới dưới các mỹ từ và khẩu hiệu giả dối. Nếu nói “Công”, HCM có “Công Lớn” với Liên xô-Stalin-Trung Cộng-Mao Trạch Đông’.

Khi biết rõ những sự thật lịch sử nêu trên, ai cũng nhận thấy, chuyện NGHỊCH LÝ VÀ LỐ BỊCH ‘VĨ ĐẠI’ NHẤT hiện nay ở VN là việc đảng giặc VC tiếp tục, ép buộc dân chúng phải tôn thờ quốc tặc HCM. Nhất là thanh thiếu niên ở học đường, bị nhồi sọ những điều GIAN DỐI mà VC gọi là “tư tưởng và đạo đức của Chủ Tịch HCM”!

Trần Quốc Kháng

San Jose 23-2-2010

Đan Tâm-Hà Thành thanh lịch-chị…. đéo có bàn đâu!”

Hà Thành thanh lịch

Đan Tâm

ao dai 5Ngày xưa, Hà Nội được mệnh danh là đất “ngàn năm văn vật”. Người Hà Nội được ca ngợi là “trai thanh, gái lịch”… Hình ảnh các cô thiếu nữ thanh tân, yểu điệu trong khăn quàng, áo nhung mỗi độ xuân về, không làm sao bôi xóa được trong tiềm thức của những người bỏ Hà Nội ra đi năm 1954. Người Hà nội tôn trọng gia phong, nề nếp, cẩn thận trong lời ăn, tiếng nói, lịch sự trong giao tế, và nghiêm khắc trong việc giáo dục con cái. Phong cách ăn nói của người Hà nội thì luôn lễ phép, thưa gửi, vâng dạ. Vui mừng, hoặc giận dữ đều không biểu lộ thái quá. Khi bực tức cũng không văng tục, chửi thề, phun nước miếng, hoặc dùng lời lẽ khiếm nhã. Cái lịch sự, và lễ phép nhiều khi thái quá, khiến có người phê bình rằng dân Hà nội khách sáo, màu mè, thiếu thành thực…

Nét thanh lịch của người Hà Nội không phải là có được trong vài năm, hay vài chục năm. Mà nó được bảo tồn, và vun đắp từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tiếc thay! cái phong cách của Hà Thành thanh lịch ngày nay đã không còn nữa. Những người xa Hà Nội, háo hức trở về, đều thở dài thất vọng! Từ hoàn cảnh tới con người đều thay đổi với thời gian, không còn dấu tích gì của đất ngàn năm văn vật khi xưa.

Ta đã về đây, bao nhớ thương
Thềm xưa, quê cũ, lá sân trường
Biệt ly từ độ xuân còn thắm
Tóc trắng quay về, dạ vấn vương

Ta đã về thăm nơi dấu yêu
Người xưa, cảnh cũ, nhớ bao nhiêu
Tang thương nửa giấc, tàn mộng đẹp
Tan nát lòng ai, lạnh gió chiều!
(1)

XHCN tai hại quá! Đã … giết chết Hà Thành thanh lich trong một thời gian chỉ có mấy chục năm trời. Người ta nói nhà cửa phố xá cũ kỹ, tróc sơn, bạc màu là vì hoàn cảnh chiến tranh khổ cực, nghèo đói. Ăn còn phải trộn bo bo, mì sợi, thì làm sao lo được quét vôi với sơn nhà. Nhưng ngày nay, đất nước thanh bình đã 36 năm, tại sao phố xá, nhà cửa vẫn chưa được chỉnh trang nhỉ? Ăn ở thì chen chúc nhau: 6, 7 gia đình ở chung trong một căn nhà. Mỗi gia đình ở 1 phòng vừa làm phòng khách, phòng ăn, phòng ngủ, có khi còn nấu bếp nữa. Vào thăm một căn nhà, không biết nên ngồi chỗ nào vì quần áo đồ đạc ngổn ngang. Mùi dầu mỡ còn vất vưởng trong không khí. Ấy là chưa kể 3, 4 gia đình phải dùng chung 1 nhà vệ sinh. Cái cảnh gấu ó, gây gổ làm sao mà tránh khỏi.

Về Hà Nội, cái ấn tượng đầu tiên của du khách là người ở đâu ra mà nhiều thế? Trên các đường phố chính như Hàng Đào, Hàng Gai, Hàng Ngang, Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Buồm thì vỉa hè cũng là những cửa hàng thương mại. Khách bộ hành phải chật vật, len lỏi trên lối đi đầy những người. Người đụng với người, và tạo cơ hội cho bọn móc túi, rạch bóp làm ăn. Mua bán ở Hà Nội cũng khó lắm, người bán hàng không bao giờ ra gía thực, mà nói cao vút lên 9 tầng mây xanh để cho khách hàng trả giá từ từ. Về phần khách hàng, phải vận dụng hết trí xét đoán để tìm gía cả thích hợp. Mà cả khi mua hàng thì cũng không phải là điều đặc thù riêng của VN. Nhưng cái khác ở VN xã hôi chủ nghĩa là nếu trả cao quá, thì sẽ mua hớ, mà trả thấp quá sẽ bị người bán lườm nguýt, hoặc trả lời bằng những lời nhát gừng, xiên xỏ. Nếu lỡ hỏi gía rồi mà bỏ đi, thì sẽ bị người bán kêu dựt ngược. Không chịu trở lại thì người bán sẽ không nề hà gì giữa đám đông, mà tặng cho những lời tục tĩu, hoặc cho những món ăn… khó nuốt.

Cái khổ nhất của khách du lịch về VN là vấn đề cầu tiêu. Ngay tại những nơi có tiêu chuẩn quốc tế cao như phi trường Nội Bài thì cầu tiêu cũng chưa được chỉnh trang và còn có mùi hôi hám. Nhiều nơi công cộng như các phòng triển lãm, chợ búa, cầu tiêu vẫn còn giữ kiểu cổ, và khách dùng nhà vệ sinh xong đều phải tự múc nước xối từ cái chum đựng nước cạnh đó. Trong khi đó mùi hôi nồng nặc làm người ta phải nín thở.
Bước vào tiệm ăn, thì có cảnh tự động xả rác xuống nền nhà. Ăn xong, nhả xương ra là vứt xuống đất. Giấy chùi tay, lau miệng xong cũng vứt xuống đất, bất cứ thứ gì không dùng đều được thẳng tay vứt xuống đất. Ai cũng làm như vậy, nên chẳng có ai phê bình ai, mà chủ quán cũng chẳng than phiền. Vấn đề xả rác không phải chỉ ở tiệm ăn, mà ngay trên hè phố, những nơi công cộng như rạp hát, công viên, nơi có mặt khách ngoại quốc. Cắn hạt dưa, ăn kẹo, nhả bã mía thẳng tay vứt xuống đường phố. Nhiều khi còn khạc đàm, hì mũi. Thấy mà phát khiếp.
Một cảnh hay ho khác là… đái bậy. Đối với người VN, chỗ nào thuận tiên thì chỗ đó là nhà vệ sinh. Nơi được chiếu cố nhiều nhất là các công viên, các nơi vắng người qua lại. Phụ nữ cũng không nề hà mà sánh vai với nam giới để đòi bằng được”nam nữ bình quyền” về vấn đề này.

Sau đó là vấn đề ngôn ngữ. Dân VN thích dùng chữ lóng để nói chuyện, ngay cả khi có mặt những người khách lạ. Còn văng tục, thì là lời nói từ cửa miệng. Tôi còn nhớ lần về chơi VN, cô em họ dẫn tôi đi ăn phở Tư Lùn mà cô quảng cáo là ngon nhất Hà Nội… Tiệm phở ở trong hẻm, bày mấy cái bàn thấp lè tè trên vỉa hè cho thực khách ngồi. Anh bồi bàn chỉ cho tôi một bàn trên vỉa hè. Nhìn thấy rác rưởi ngập ngụa dưới đất, tôi ngần ngại thì anh bồi bàn dục dã: “Chị không ngồi vào, có người khác tới ngồi là chị…. đéo có bàn đâu!”.

Tôi giận quá, tính bỏ đi nhưng cô em họ kéo lại và bảo rằng: “Ở đây, bây giờ nói năng như vậy là bình thường, tại chị chưa quen đấy thôi”.
Người ta bảo những người Hà Nội bây giờ là những người tứ xứ dọn về, còn trai thanh, gái lịch của Hà thành năm nao thì nay đã lang bạt khắp chân trời góc biển, sau những đợt đấu tranh giai cấp, “đào tận gốc tróc tận rễ, trí phú điạ hào“. Những người còn ở lại thì cũng hoà nhập, ăn nói hành xử như những con người mới xã hội chủ nghĩa của “bác và đảng” để yên thân.

Ôi! Hà Nội ngày nay, đã phụ lòng mong đợi của những người con xa xứ, vượt ngàn trùng trở về để mong tìm lại được chút dư âm của Hà Nội thanh lịch năm nào.

Hà Nội nơi đâu em biết không?
Ta như Lưu Nguyễn ngẩn ngơ lòng
Nửa kiếp phù sinh còn ôm mộng
Mười phương trần thế nhớ mênh mông

Hà nội hôm nay đã đổi đời
Chẳng còn Hà Nội thủa năm mươi
Nhưng sao ta vẫn hoài nhung nhớ
Vẫn tiếc thương và vẫn ngậm ngùi
(1)

Đan Tâm

(1) Thơ Nhã ý

Lão Gà Tre-34 Năm Sau và Họ Là Ai ?

34 Năm Sau và Họ Là Ai ?

http://www.take2tango.com/MyFiles/image/News/04-2009/Tuan%2010/LaoGaTre-01.jpgLão Gà Tre

Ba mươi bốn năm (34) so với chiều dài lịch sử của một triều đại thời xưa thì ngắn, nhưng với một đời người thì dài lắm, nhất là đối với những ai quan tâm đến thời cuộc, đến vận mệnh khổ đau của dân tộc Việt Nam thì nó lại càng dài hơn.

Ba mươi bốn năm trôi qua quả thật như một giấc mơ hãi hùng! Máu, nước mắt, khổ lụy, nghiệt ngã vẫn còn đây! Những cuộc vượt thoát vô tiền khoáng hậu của người Việt trốn chạy cộng sản – mà cả thế giới đều biết – vẫn còn ghi đậm trong lịch sử nhân loại. Riêng đối với người Việt tị nạn, làm sao có thể quên được những ngày tháng hãi hùng ấy. Có lẽ nó sẽ nằm sâu, nằm mãi trong tiềm thức của mỗi chúng ta.

Ba mươi bốn năm rồi mà người đi vẫn đi, không còn đi được bằng cách vượt biển, vượt biên thì cũng tìm cơ hội khác để đi: ODP (đoàn tụ), lấy vợ, lấy chồng, du học, chạy chọt làm sao để rời xa cái gọi là “thiên đường xã hội chủ nghĩa” . Chính ngay những người theo cộng sản cả đời, những người được hưởng ơn mưa móc như núi, nhưng nếu có cơ hội ra đi là họ đi ngay để trốn khỏi cái “thiên đường” quái đản ấy.

Chừng đó thôi cũng đủ để chứng minh một cách hùng hồn rằng con người không thể sống dưới chế độ cộng sản. Khổ thay, Việt Nam là một trong bốn nước cộng sản còn lại mà loay hoay mãi vẫn không thể nào thoát khỏi cái thiên đường mù đầy oan nghiệt ấy! Nếu miền Nam Việt Nam không bị bán đứng vào tay cộng sản vào 1975, thì chắc chắn, sau sự sụp đổ của khối cộng sản Ðông Âu và Nga Sô, toàn cõi Việt Nam bây giờ đã là một xứ tự do, giàu mạnh như bao nhiêu quốc gia văn minh khác. Ít ra cũng bằng Nam Hàn với nền văn minh nhân bản như ngày nay..

Khỏi cần phải tố cáo hay chê bai chế độ; khỏi cần luận tội tập đoàn cộng sản lãnh đạo đất nước đã tàn phá quê hương như thế nào sau 34 năm thống nhất hai miền Nam-Bắc; khỏi cần so sánh với các nước láng giềng và các quốc gia khác trên thế giới – cũng bằng ấy thời gian đã vươn lên như đi hia bảy dặm – mà cứ nhìn vào xã hội tan nát, luân thường đạo lý tiêu tan, thị trường cung cầu quái dị, con người chạy theo vật chất một cách điên cuồng là biết ngay.

Khỏi cần phải nghe những luận điệu vì cảm tính của một số người về thăm quê hương rồi trở lại hồ hỡi ca ngợi: “Ðất nước ngày nay khá rồi, thôn quê đã có điện nước, người dân có quyền đi lại và có quyền chửi luôn cán bộ cộng sản”. Thế sao? Chỉ có ba bóng đèn thắp sáng trong vài túp lều thô sơ, nghèo khổ, lạc hậu; chỉ có vài người vụt miệng chửi đổng cán bộ là đã có tự do, là đất nước khá rồi hay sao? Trong khi đó đa số các quốc gia tự do trên thế giới đã và đang tiến vào một đời sống sung túc và văn minh nhất của con người lại không đem ra so sánh!

Ðúng! Việt Nam đã có tự do, nhưng đó là thứ tự do của giai cấp cai trị được “tự do” ăn trên ngồi trước, “tự do” trấn lột quần chúng để thụ hưởng những xa hoa, phù phiếm trên nỗi thống khổ của toàn dân, vốn đã quá khổ trong một thế kỷ qua vì chiến tranh bom đạn. Phải, Tự là “tự” họ quyết định sự sống của người khác bằng họng súng và Do là “do” họ tạo nên những thủ đoạn đê hèn để áp đảo người dân, tước đoạt mọi thứ quyền tự do căn bản của con người.

Ðúng! Có tiến bộ, nhưng là thứ tiến bộ lừa đảo, mưu mô xảo quyệt cướp giựt để đàn áp mọi sự chống đối của người dân – khao khát hít thở không khí tự do – đã và đang đứng lên đòi tự do tôn giáo, tự do được sống làm người.

Nói tới chính trị là phải chứng minh bằng dữ kiện, bằng đường lối cai trị của một chế độ đang điều hành guồng máy quốc gia. Chế độ ấy như thế nào thì chúng ta đã thừa biết, khỏi cần nhắc lại làm gì cho tốn giấy tốn mực. Nếu họ thật tâm lo lắng cho quyền lợi của quê hương đất nước, cho người dân được hưởng những quyền tối thiểu của con người thì 34 năm qua đất nước đã khá lên rồi. Nếu họ có thật tâm xây dựng đất nước thì tại sao chúng ta phải bỏ nước ra đi, phải tiếp tục ra đi cho đến ngày nay, và phải chấp nhận sống chết trong đường tơ kẽ tóc để tìm tự do? Vì thế, những luận điệu nông cạn thiếu suy nghĩ ấy chỉ là mớ lý luận có lợi cho cục tuyên vận của CSVN.

Vậy, họ là ai?

Họ là những thành phần ích kỷ, chỉ biết sống cho mình, miễn sao có một đời sống sung túc trên xứ người là đã thỏa mãn. Còn quê nhà, bà con làng xóm có sống như thời kỳ “đồ đá” thì cũng mặc. Miễn sao lâu lâu ta về thăm cái xứ lạc hậu ấy để thí cho một vài đồng đô, vừa được tiếng, vừa được những người thọ ơn ca tụng cho thỏa cái tự ái vị kỷ của mình.

Họ là ai?

Họ là thành phần cán bộ được cộng sản cấy theo đoàn người tỵ nạn, nằm vùng khắp mọi nơi, đóng vai quốc gia trá hình, chờ cơ hội là bò dậy tấn công vào hàng ngũ người Việt Quốc Gia, vốn đã chia rẽ trầm trọng do bản chất vị kỷ, phi chính trị của những người sinh hoạt ngoài công cộng.

Họ có mặt sinh hoạt nội gian, nội gián trong mọi tổ chức, đảng phái chính trị. Mục tiêu chính của họ là phá nát các tổ chức chính trị chống cộng, bày mưu, chước kế đâm bên này, thọc bên kia, gây mâu thuẫn nội bộ, tung những nguồn tin giật gân ra ngoài làm cho quần chúng mất niềm tin... Mục tiêu của họ chỉ có thế thôi. Khi đã thành công vì phá được các tổ chức chính trị đi đến tình trạng gần như bị tê liệt thì họ đi đâu và làm gì? Dĩ nhiên là họ đã lặn thật kỹ, viện cớ chán ngán thế sự, lui về ngồi rung đùi đếm tiền và hưởng nhàn, ôm theo một đống tiền, gọi là công tác phí trọn đời.

Họ là ai?

Thà rằng tỏ rõ thái độ đầu hàng như một ông tướng, ông nhạc sĩ “nhớn” đã quay về với đảng và nhà nước, ăn năn sám hối để được hưởng “lộc” cuối đời. Dù xú danh muôn thuở, người đời nguyền rủa, nhưng ít ra họ đã biểu lộ thái độ chính trị dứt khoát theo cộng để người ta phân biệt lằn ranh biên giới rõ ràng giữa họ và chúng ta. Còn hơn những tên nằm vùng sống với nhiều mặt nạ khác nhau để quậy phá các tổ chức chính trị, hội đoàn, cộng đồng; thậm chí trong giới cầm bút cũng không thiếu những tên tự xưng là người cầm bút, nhưng bất xứng, lại háo danh, hám lợi.. Chính họ là một thứ bồi bút không hơn không kém, viết lách theo đơn đặt hàng, núp bóng trong tổ chức Văn Bút, để “cố đấm ăn xôi” một cách quyết liệt với mục đích xé nát tổ chức nhằm xóa bỏ dấu tích còn lại của người Việt quốc gia trên diễn đàn quốc tế.. Họ cố đấm dù không ăn được xôi đến độ một cách phi lý, phi văn hóa mà bất cứ ai có chút suy nghĩ cũng phải nghi ngờ chắc chắn đàng sau họ phải có một sức đẩy nào đó. Họ chính là “những kẻ vô lại may mắn” như nhà văn Phạm Ngũ Yên đã đặt tên trong một loạt bài tố cáo đích danh những tên vô lại này trước công luận vào năm 2008.

Họ là ai?

Họ cũng là những người vượt biển vượt biên ra đi tìm tự do, nhưng sống “với vật chất và vì vật chất” nên theo thời gian, thời thế thế thời phải thế. Họ đã quay lưng, cúi đầu phục vụ trực tiếp, hay gián tiếp cho cục tuyên vận CSVN, sẵn sàng đâm vào vết thương lòng của tập thể người Việt tỵ nạn để kiếm lợi.

Họ là ai?

Họ là những nhà “làm chính trị” theo kiểu lập dị, với mớ lý luận thiên tả, ưa bềnh bồng, không định hướng như con thuyền không bến. Họ sống bên này với thế giới tự do văn minh, phủ phê vật chất nhưng luôn luôn mơ mộng ở một “thiên đường” khác: thiên đường của hoang tưởng, thiên đường của không tưởng. Nhưng nếu họ được sống thực trong cái “thiên đường” ấy, chắc chắn là họ phải lên cơn điên và trở thành người điên sớm nhất. Tiếc thay, khi va chạm với thực tế trong cái xã hội tha hóa ấy thì hối hận cũng đã muộn màng!

Họ là ai?

Họ là thành phần làm chính trị theo kiểu salon, thích đọc diễn văn “xa đấm, gần đâm”. Nghĩa là ở xa thì hô hào “Ðấm” đá, nhưng ở gần thì “Ðâm” đầu bỏ chạy. Họ cứ tưởng sẽ hòa hợp được với cộng sản bằng một mớ kiến thức về kỹ thuật mà họ học được từ hải ngoại. Về nước họ sẽ được trọng dụng và đảng cộng sản sẽ nghe theo họ. Ðúng là hoang tưởng!

Họ là ai?

Họ là những thương gia, với quan niệm “chỉ làm thương mại, không làm chính trị”. Giấc mơ của họ là giấc mơ của những “đại gia” thời mới, đượỳc nhà nước ca tụng và tâng bốc trên tận mây xanh. Trước khi đặt vấn đề đầu tiên là “tiền đâu”; dĩ nhiên là họ phải chạy theo giai cấp thống trị, làm theo lệnh của bạo quyền để kiếm lợi. Vì vậy, với thành phần chỉ biết mua bán để kiếm lợi thì trách họ làm gì cho bận tâm. Với họ. quê hương dân tộc không bằng một quả chanh, khi vắt hết nước là liệng vỏ ngay. Gần đây, nhiều “đại gia” đổ tiền về làm ăn vì được đảng nâng bi ca tụng hết mình, nhưng chỉ một thời gian sau thì những đại gia này đều bị trấn lột sạch sành sanh... kêu Trời không thấu! Cái giá “không làm chính trị, chỉ biết làm ăn” họ đã phải trả một cách cay đắng.

Lời kết:
May thay, dân tộc Việt trường tồn qua mấy ngàn năm nay cũng nhờ vào hồn thiêng tổ tiên phù trợ, nên thành phần “Họ Là Ai” nói trên chỉ là thiểu số ung nhọt, sâu mọt trong đại gia đình dân tộc Việt mà thời nào cũng có trong lịch sử.. Còn đại đa số những người bỏ nước ra đi tìm tự do thật sự từ năm 1975 đến nay, vẫn một lòng, một chí hướng, đó là giải thể chế độ cộng sản để đưa đất nước tiến lên trong tự do dân chủ. Ngày nào còn bóng dáng cộng sản là còn đấu tranh đòi quyền sống cho đồng bào ruột thịt đang chịu đựng trăm đắng ngàn cay ở quê nhà.

Ba mươi bốn năm rồi, mặc dù những hiện tượng chia rẽ trong hàng ngũ của chúng ta đã xảy ra vì địch và vì chính chúng ta tạo nên cũng có, nhưng những chiến sĩ can trường đã và đang âm thầm hay công khai đấu đầu với CSVN ở khắp mọi nơi vẫn kiên trì, bất khuất, vẫn một lòng với đại cuộc đấu tranh chống cộng. Ở quốc nội, các vị chân tu của các tôn giáo, các nhà đấu tranh cho dân chủ vẫn không sờn lòng đứng lên đòi quyền sống, quyền hành đạo, quyền được phát biểu tư tưởng, mặc dù bị bắt bớ giam cầm dã man trong suốt 34 năm qua. Ở hải ngoại, vẫn những chiến sĩ xung trận ngăn chặn mọi sự xâm nhập của CSVN trên mọi chiến tuyến. Xin cầu chúc “chân cứng đá mềm” tới những tấm lòng bất khuất mà thời nào họ cũng đứng lên trong dòng sinh mệnh của dân tộc Việt.

Là những người may mắn thoát khỏi nanh vuốt của tập đoàn cộng sản, chúng ta không thể nào ngồi yên để hưởng thụ, mà đã đến lúc phải góp sức vào công cuộc chung, tiếp tay với những anh hùng đang xả thân vì nước bằng cách vận động, góp tinh thần – dù chỉ là lời nói – cho quí vị lãnh đạo tinh thần, những nhà đấu tranh cho dân chủ ở trong nước đang ngày đêm gian khổ, sống chết trước sự đàn áp dã man của bạo quyền cộng sản.

Có như thế thì chúng ta mới không phụ lòng những anh hùng liệt sĩ đã nằm xuống cho chính chúng ta được sống. Có như thế thì mới không hổ thẹn với chính lương tâm mình mỗi khi nhìn lại chặng đường lưu lạc gian khổ suốt ba mươi bốn năm qua: “Ta đã làm được gì cho quê hương dân tộc”? Có như thế mới làm gương cho thế hệ trẻ trong việc gìn giữ nguồn gốc và tinh thần trách nhiệm đối với sự sinh tồn của dân tộc. Một Brian Doan, một Madison Nguyễn, một John Nguyễn... cũng chỉ là một thiểu số nhỏ bé, bé hơn cả những hòn sỏi khi ném xuống mặt hồ yên lặng, vẫn chưa đủ sức làm gợn sóng lăn tăn. Thế nhưng, mặt khác của vấn đề là sự tỉnh thức của chúng ta, của tập thể người Việt không cộng sản, đó là đoàn kết và cố gắng chăm sóc cho thế hệ nối tiếp gìn giữ truyền thống giáo dục gia đình.

Nhân mùa quốc nạn, xin được thắp nén hương lòng gửi đến hồn thiêng của các anh linh tử sĩ, đồng bào vượt biển, vượt biên đã anh dũng nằm xuống cho đất mẹ sớm nở hoa tự do. Ðồng thời cũng xin được nguyện cầu bình an cho những anh hùng dân tộc đang ngày đêm chiến đấu một mất một còn với CSVN trên mọi mặt trận.

Lão Gà Tre

nguyên nhân lũ lụt ở Tuy Hòa là do Thủy điện sông Ba Hạ xả lũ Thảm họa do đâu?


Thảm họa do đâu?

Thứ Tư, 11/11/2009 (
,

- Sau khi cơn bão số Mirinae đổ vào các tỉnh miền Trung gây thiệt hại lớn về người,, Người lao động đã có các bài báo đưa các ý kiến cho rằng nguyên nhân lũ lụt ở Tuy Hòa là do Thủy điện sông Ba Hạ xả lũ (2), (3), (4), (5), (6). Bài viết này đưa ra một cái nhìn khác, dựa trên những số liệu mà chính các bài viết trên đã đưa và một số hình ảnh trên google maps.

Có thể nói cơn lũ vừa qua ở Tuy Hòa là một ví dụ điển hình của “perfect storm” (họa vô đơn chí).

Bão Mirinae là một cơn bão lớn với vận tốc gió cao, kèm theo mưa lớn trên diện rộng, xuất hiện vào cuối mùa mưa (khi các hồ thủy điện đã tích nước dự trữ cho mùa khô).

Nhìn vào sơ đồ của lưu vực sông Ba, phải thấy rằng địa hình tự nhiên đã tạo nên thị xã Tuy Hòa như là môt cái miệng phễu hứng toàn bộ lượng mưa, từ địa hình dốc của toàn bộ lưu vực sông Ba và sông Yaun (Hình 1). Hơn nữa cửa sông Ba cũng rất hẹp và không thuận lợi cho việc thoát nước nhanh (Hình 2).

Có thể trong những ngày mưa bão có triều cường (1) làm cho việc thoát nước càng trở nên khó khăn. Cộng thêm rừng đầu nguồn bị tàn phá nặng nề, làm cho lớp phủ thực vật và đất không có khả năng giữ nước khiến lưu lượng nước chảy về hạ lưu lớn hơn. Chưa kể, có khả năng Thủy điện Sông Hinh cũng xả lũ trong dịp này.

Như vậy, có phải thiên tai và hành động phá rừng của con người đã tạo nên trận lũ lịch sử này hay không? Hay là do việc xây dựng Thủy điện sông Ba Hạ mới đưa vào hoạt động và xả lũ trong dịp này góp phần làm lũ thêm trầm trọng?

Thủy điện sông Ba ở đâu, và có khả năng cắt lũ hay không?

Nhà máy thủy điện sông Ba Hạ thuộc địa bàn huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên, rộng 54,66 km2, mực nước dâng bình thường 105m với dung tích toàn bộ 349,7 triệu m3, trong đó dung tích hữu ích gần 166 triệu m3. Lưu lượng qua nhà máy gần 55m3 một giây; lượng nước về hồ mỗi năm 5-7 tỷ m3. (theo Vnexpress)

Mô tả ảnh.
Hình 1: Lưu vực sông Ba (theo Tuổi Trẻ)


Mô tả ảnh.
Hình 2: Cửa sông Ba (Google maps)

Bỏ qua những sai sót dễ thấy trong sơ đồ hình 1 (vòng tròn màu đỏ đánh dấu sai vị trí thủy điện An Khê- Kanak, thủy điện sông Hinh, và không tìm thấy Thủy điện Ayun Hạ như vị trí trong hình), thì trong trường hợp các thuỷ điện đầu nguồn không xả lũ, hồ sông Ba Hạ phải chịu trách nhiệm điều tiết cho gần 2/3 lưu vực sông Ba (đường khoanh vùng màu xanh lá cây).

Để dễ hình dung, hãy so sánh quy mô của hồ thủy điện sông Ba Hạ (ô màu đỏ) với thủy điện sông Hinh (ô màu xanh) như trong hình 3, và phóng to trên hình 4. Lưu ý rằng hai dải trắng bên bờ sông là mức nước dâng cao của lòng hồ. Với bề rộng lòng hồ khoảng 250m, mực nước dâng bình thường là 105m thì chúng ta có thể thấy dung tích của hồ chứa thủy điện sông Ba Hạ là nhỏ. Theo tính toán của chúng tôi, với lưu lượng thực tế 10.000 m3/giây như nêu trong bài (2) thì chỉ trong khoảng 4 tiếng rưỡi, dung tích hữu ích của hồ sẽ đầy. Như vậy có thể khẳng định hồ chứa thủy điện sông Ba Hạ không có khả năng điều tiết và cắt những con lũ lớn như vừa rồi, đúng như ông Tổng Giám đốc Công ty cổ phần thủy điện sông Ba Hạ Võ Văn Tri đã nói.

Mô tả ảnh.
Hình 3: Hồ thủy điện sông Ba Hạ và sông Hinh (Google maps)


Mô tả ảnh.
Hình 4: Hồ thủy điện sông Ba Hạ (Google maps)


Việc xả lũ có phải là nguyên nhân gây ngập lụt của thị xã Tuy Hòa không?

Trước tiên cần phải thấy rằng việc xả lũ cũng như tích nước của hồ thủy điện phải theo quy trình quản lý của Bộ Công thương. Nếu lưu lượng xả lũ lớn hơn lưu lượng đến thì có thể nói thủy điện góp phần làm cơn lũ thêm trầm trọng.

Nhưng theo Vnexpress (2), trong ngày lũ, lưu lượng nước trên Sông Ba là 20.000 m3/giây và lưu lượng xả lũ là 10.000 m3/giây thì có thể nói thủy điện sông Ba Hạ đã tích nước, góp phần giảm nhẹ cơn lũ lịch sử.

Như trên đã phân tích, điều kiện tự nhiên, mưa lớn bất thường, gây lũ lớn là thiên tai bất khả kháng. Bằng các số liệu trên các bài báo nêu trên, khó có thể kết luận việc xây dựng thủy điện cũng như việc xả lũ của hồ chứa sông Ba Hạ gây nên thảm họa.

Hơn một lần, trong các bài báo, người dân nói đây là cơn lũ “chưa từng có” hay “hàng trăm năm mới có một lần”.

Thật vậy, khí hậu toàn cầu đang biến đổi nhanh chóng. Hậu quả của nó là các thiên tai nghiêm trọng xuất hiện với tần suất dày hơn, nghiêm trọng hơn. (Hình 5). Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất thế giới do biến đổi khí hậu toàn cầu. Phải chăng trận lũ lịch sử ở Tuy Hòa là một trong những thiên tai nghiêm trọng đó.

Vậy làm thế nào để giảm thiểu thiệt hại do thiên tai?

Nâng cao năng lực phòng chống thiên tai cho các cấp chính quyền, và nâng cao nhận thức cộng đồng đối với thiên tai là những mục tiêu thế kỷ của Ủy ban Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu.

Các cấp chính quyền, nhất là cấp cơ sở cần nhận thức được biến đổi khí hậu và các hậu quả của nó, cần được chuẩn bị đầy đủ phương tiện, nhân lực, để đối phó với thiên tai ngày càng nhiều và khốc liệt. Ở cấp Trung ương, cần thành lập ủy ban khẩn cấp đối phó với các thảm họa, trang bị phương tiện hiện đại, nhân lực được huấn luyện thường xuyên, chuyên nghiệp, sẵn sàng đối phó với thiên tai, thảm họa. Nhận thức đúng và đầy đủ về biến đổi khí hậu và hậu quả của nó còn giúp cho các nhà hoạch định chính sách, quy hoạch thành phố có tầm nhìn trong dài hạn. Chẳng hạn, trong tương lai không xa, TP.HCM sẽ phải đối phó với triều cường cao xuất hiện ngày càng nhiều (1).

Riêng với thiệt hại nghiêm trọng về người do bão Mirinae, cần có ủy ban điều tra để làm rõ và khắc phục những điểm yếu (nếu có) trong quy trình ứng phó thiên tai hiện tại, cũng như quy trình quản lý hồ chứa, liên hồ, góp phần giảm thiểu thiệt hại trong tương lai.

Chính quyền cần giúp cho người dân nâng cao nhận thức của dân đối với thiên tai và cách đối phó trong những trường hợp khẩn cấp. Nâng cao nhận thức cộng đồng là một việc làm rất khó khăn, đòi hỏi rất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc, chứ không hề dễ dàng. Nên chăng cần đưa các kiến thức cơ bản về biến đổi khí hậu vào các chương trình ngoại khóa trong nhà trường. Và nhất là phổ cập bơi lội cho các cháu học sinh cấp I tại TP.HCM.

(Một ví dụ về khó nâng cao nhận thức cộng đồng là việc tham gia giao thông, chấp hành Luật Giao thông hằng ngày. Nếu cộng đồng nhận thức được lợi ích của việc này cho xã hội và cho bản thân người tham gia thì chắc là mỗi năm cũng cứu được rất nhiều người.)

Mô tả ảnh.
Hình 5. Biến đổi khí hậu và khả năng xuất hiện các thiên tai nghiêm trọng.
  • Minh Hạnh

(1) Triều cường Sài Gòn lên đỉnh cao nhất trong 50 năm
http://vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2009/11/3BA15575/
(2) Hồ thủy điện xả lũ dồn nước làm Phú Yên ngập nặng
http://vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2009/11/3BA1557B/
(3)Thủy điện xả lũ, Tuy Hòa lãnh đủ
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/PrintView.aspx?ArticleID=346129&ChannelID=3
(4) Mặt trái thủy điện
http://www.nld.com.vn/2009110712533454P1002C1003/mat-trai-thuy-dien.htm
(5) Xả lũ phải tính đến cuộc sống người dân
http://www.nld.com.vn/2009110712292327P1042C1105/xa-lu-phai-tinh-den-cuoc-song-nguoi-dan.htm
(6) Thủy điện đã tiếp tay cho lũ lụt
http://vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2009/11/3BA1563A/
(*) Lưu ý cách đặt câu hỏi, và tiêu đềs dễ làm cho người đọc dễ nhầm tưởng là Tổng Giám đốc Công ty cổ phần thủy điện sông Ba Hạ Võ Văn Tri thừa nhận nguyên nhân lũ là do thủy điện xả lũ.


Trở về từ “cõi chết”
12/11/2009 14:05


Vật lộn với lũ dữ, sóng to trên vịnh Xuân Đài (Phú Yên), nhiều ngư dân tưởng chừng sẽ chết không tìm thấy xác, nhưng họ đã may mắn được một tàu nước ngoài cứu sống.

Nhiều ngư dân ở làng biển Dân Phước, phường Xuân Thành, thị xã Sông Cầu (tỉnh Phú Yên) vẫn chưa hết nỗi hãi hùng khi kể lại câu chuyện họ chống chọi với lũ, những cơn sóng cao phủ đầu người bổ xuống như muốn nuốt chửng mọi thứ.

“Bão vừa tan, tôi vội đi ngay ra chỗ neo tàu để bơm nước. Vừa mới nổ máy, lũ từ đâu đổ ập xuống, đập vào tàu ầm ầm vang cả khúc sông. Cả chục chiếc tàu kết thành bè trôi băng băng, va đập vào nhau khiến nhiều chiếc bị vỡ, sóng nhấn chìm tại cửa biển Tam Giang. Tôi cùng với mấy anh em khác chặt bỏ toàn bộ dây neo chằng chịt với tàu khác nên tàu tôi mới thoát được”, anh Dương Văn Phụng (25 tuổi), chủ tàu PY-40438 ở làng biển Dân Phước (Phú Yên), kể lại nhưng trên nét mặt vẫn chưa hết nỗi sợ hãi về những gì đã trải qua.

Theo kinh nghiệm của ngư dân, để tránh bão an toàn, khoảng 20 chiếc tàu ken (neo liền kề - PV) với nhau thành bè. Trong số tàu cá neo đậu chung với tàu anh Phụng, tàu cá PY-40038 của anh Nguyễn Thanh Quý có công suất nhỏ nên bị lũ nhấn chìm trước khi ra đến cửa biển. Anh Quý chỉ kịp nhảy sang tàu của anh Phụng, còn xác con tàu đã nằm sâu đâu đó ở dưới lòng sông Tam Giang.

Đã hơn 9 ngày qua, tinh thần anh Quý vẫn còn hoảng loạn, cố nhớ lại những gì đã xảy ra với anh trong cơn lũ vừa qua: “Tàu của tôi neo đậu giữa dòng Tam Giang. Vừa bước chân xuống tàu, tôi nghe tiếng va đập giữa các tàu với nhau vang lên rất to. Tôi chạy ra khỏi khoang tàu thì thấy nhiều tàu khác đập mạnh vào tàu của tôi liên tiếp vang lên ầm ầm. Tôi chỉ kịp nhảy sang tàu anh Phụng, quay lại nhìn thấy tàu mình đã chìm mất”.

Cùng lâm nạn với tàu anh Quý, tàu cá PY-40618 của anh Ngô Văn Ny bị lũ, sóng nhấn chìm. Anh Ny phải sang tàu anh Phụng để “trú” nhờ.

Các ngư dân sống sót trở về cố gắng tìm kiếm những gì còn lại trên con tàu bị sóng đánh tan tành - Ảnh: Đức Huy

Cả ba người cùng một ngư dân ở phường Xuân Thành lênh đênh trên tàu anh Phụng đã bị vỡ, nước tràn vào khoang máy trong đêm tối.

“Do neo sát vào nhau nên dây neo quấn chằng chịt, chúng tôi phải dùng dao chặt dây neo để tàu khỏi bị chìm theo. Lúc này, trời tối mịt, mưa to, gió lớn khiến chúng tôi chẳng nhìn thấy gì. Khổ nỗi, tàu của anh Phụng không có máy định vị nên chỉ trông chờ vào kinh nghiệm, anh Phụng lái tàu chạy dòng (chạy lòng vòng - PV) theo ngọn sóng. Bấy giờ, bốn anh em nghĩ chết là chắc, không còn hi vọng gì nữa. Tôi ra mũi tàu thì nhìn thấy ánh sáng nên bảo anh Phụng chạy thẳng về phía có ánh sáng đó. Cách tàu nước ngoài chừng vài trăm mét, tàu của anh Phụng chìm dần xuống vịnh Xuân Đài. Nhờ áo phao cứu hộ có còi, chúng tôi đồng loạt thổi nên những người trên tàu nước ngoài chạy đến cứu vớt, cho quần áo, thức ăn…”, anh Ny thuật lại.

Thuyền trưởng Rombieist Pekeng - mặc áo thun trắng - Ảnh: Hoài Trung

Chiếc tàu đã cứu Ngô Văn Ny và 3 ngư dân ở phường Xuân Thành là tàu lai dắt No-101 Jin Kyoung, treo cờ Panama. Thủy thủ đoàn gồm 8 người đều đến từ Indonesia. Theo lời kể của thuyền trưởng Rombieist Pekeng (37 tuổi), tàu Jin Kyoung cùng nhiều tàu, thiết bị khác được doanh nghiệp tư nhân Bảo Châu (TP Tuy Hòa, Phú Yên) thuê để tiến hành nạo vét cát nhiễm mặn tại cửa Đà Diễn (TP Tuy Hòa) và cửa biển Tiên Châu, xã An Ninh Tây (huyện Tuy An, Phú Yên). Trước khi bão số 11 đổ bộ vào Phú Yên, doanh nghiệp tư nhân Bảo Châu nhắc thủy thủ đoàn của các tàu trong quá trình di chuyển ra vịnh Xuân Đài tránh trú bão phải tham gia cứu nạn trên biển nếu điều kiện cho phép. Đêm ngày 2.11 khi đang neo đậu, các thủy thủ nghe tiếng người kêu trên biển. Biết có người bị nạn cần được giúp đỡ, thuyền trưởng Rombieist Pekeng lập tức ra lệnh bật đèn pha trên tàu và thiết bị được lai dắt. Mặc dù sóng to, gió lớn nhưng thủy thủ trên tàu vẫn nhào ra mạn quăng dây và tìm mọi cách cứu hộ.

Tàu No-101 Jin Kyoung đang neo đậu tại cửa biển Tiên Châu - Ảnh: Hoài Trung

Thủy thủ Karina, 50 tuổi, một trong số những người tích cực giúp đỡ các ngư dân Việt Nam cho biết: “Là những người đi biển, bất kỳ ai cũng phải có trách nhiệm tham gia cứu giúp người bị nạn. Đó không chỉ là quy ước theo thông lệ hàng hải quốc tế mà còn thể hiện tình cảm thân thiện, tình hữu nghị giữa ngư dân Việt Nam và các thủy thủ Indonesia”.

Thủy điện ‘băm nát’ sông Ðồng Nai: Hàng triệu người ở hạ nguồn lãnh đủ

medium_VN-LutMienTrung.jpg

Vụ lũ lụt sau cơn bão 11 giết chết nhiều người dân ở miền Trung có sự “tiếp tay” của việc xả lũ của các đập thủy điện. (Hình: Getty Images)

medium_VN_Dap_TriAn.JPG

Ðập Trị An không có công trình cầu vượt cho các loài thủy sản. (Hình: của tác giả Kim Cương).


SÀI GÒN (TH) - Trong khi dư luận đang rất tức giận vì hệ thống nhà máy thủy điện xả lũ góp phần làm ngập lụt và giết dân ở tỉnh Phú Yên, một độc giả của báo Người Lao Ðộng vạch ra cho thấy hàng chục dự án thủy điện đang được hình thành trên thượng nguồn sông Ðồng Nai.

Từ thảm họa mà người dân các tỉnh Quảng Nam và Phú Yên phải gánh chịu vì đập thủy điện xả lũ, người ta hình dung ra ngay thảm họa hàng triệu người ở hạ nguồn trong đó có 7 triệu dân ở Sài Gòn sẽ phải nhận lãnh, nếu các nhà máy thủy điện xây dựng bừa bãi.

“Theo quy hoạch phân bố bậc thang thủy điện sông Ðồng Nai, tính từ thượng nguồn sẽ có 10 bậc thang trên dòng chính cùng hai phụ lưu lớn là sông La Ngà và sông Bé. Hiện sông Ðồng Nai đang gánh hàng chục công trình thủy điện.”

Tác giả bài viết ký tên Kim Cương tiết lộ, “Theo báo cáo đánh giá quy hoạch thủy điện quốc gia của Bộ Công Nghiệp (nay là Bộ Công Thương), sông Ðồng Nai là sông lớn nhất ở miền Nam, có nguồn thủy năng lớn thứ hai cả nước sau sông Ðà. Do đó, các đề án quy hoạch phát triển thủy điện phía Nam hầu hết đều tập trung trên sông Ðồng Nai”.

* La liệt thủy điện

Theo tác giả bài viết, dựa trên đề nghị của Bộ Công Nghiệp, năm 2002, nhà cầm quyền Việt Nam quyết định lập 15 nhà máy thủy điện trên 10 bậc thang trên của sông Ðồng Nai. Trong đó, tác giả Kim Cương viết, “các công trình thủy điện 'đàn anh' ở đầu nguồn đang hoạt động gồm: Ða Nhim-160 MW, Trị An-400 MW, Thác Mơ-150 MW, Hàm Thuận-300 MW, Ða Mi-175 MW”. Hiện có một loạt các dự án thủy điện đang xây dựng hoặc trong giai đoạn lập dự án đầu tư, như: Ðại Ninh, Ðồng Nai 2, 3, 4, 5, 6, 8, Ðắk Tih-La Ngâu.

Ðó là trên dòng chính, tác giả viết, còn các dòng phụ ra sông Ðồng Nai cũng chịu áp lực về thủy điện. Trên sông La Ngà cũng được quy hoạch 2 bậc thang thủy điện Bảo Lộc và Trà Mi. Trên sông Bé có thủy điện Thác Mơ, Cầu Ðơn và Srok Phu Miêng.

Theo sự hiểu biết của tác giả bài viết mà người ta tin phải là một người biết rất rành rẽ về kế hoạch khai thác thủy điện trên thượng nguồn sông Ðồng Nai, sau khi hoàn tất, “toàn bộ các công trình thủy điện này sẽ phát điện với tổng công suất 2,780 MW và điện lượng trung bình hằng năm 11,381 GWh, đến năm 2010 đáp ứng được khoảng 1/3 nhu cầu điện năng của miền Nam.”

“Với quy hoạch này, từ thượng nguồn đến hạ nguồn sông Ðồng Nai, từ dòng chính đến dòng phụ, nơi đâu cũng đụng thủy điện.” tác giả Kim Cương viết, “Chưa hết, mới đây, UBND tỉnh Ðồng Nai đã đề nghị UBND huyện Tân Phú và Ðịnh Quán xem xét thực hiện 5 công trình thủy điện để khai thác tiềm năng thủy điện của hệ thống sông Ðồng Nai. Dự kiến, sông Ðồng Nai đoạn qua Tân Phú và Ðịnh Quán sẽ xây dựng các thủy điện Tà Lài, Phú Tân 1, Phú Tân 2, Thanh Sơn và Ngọc Ðịnh.”

Như tất cả các dự án “trọng điểm” nào khác, chủ đầu tư tức Công ty điện quốc doanh hoặc quan chức đầu tỉnh, dù không làm gì, cũng đều được các nhà thầu “lại quả” những số tiền rất lớn. Với số dự án thủy điện chi chít như thế, giao cho nhà thầu Trung quốc như phần lớn các dự án thủy điện và nhiệt điện đang thực hiện, “chủ đầu tư” sẽ rất no bụng.

* Gặp nhiều vướng mắc, phản đối

Theo tác giả Kim Cương, sau khi quy hoạch thủy điện bậc thang được phê duyệt, các đơn vị chủ đầu tư bắt tay vào thực hiện dự án đã gặp nhiều vướng mắc, phản đối từ phía cơ quan chức năng và giới khoa học.

“Ðiển hình như dự án thủy điện Ðồng Nai 5 do Tập đoàn Ðiện Lực VN (EVN) làm chủ đầu tư. Sau khi khảo sát, dự án sẽ gây ngập cho khoảng 200 ha rừng Vườn Quốc gia Cát Tiên nên EVN phải chuyển dự án lên phía thượng lưu thuộc xã Gia Nghĩa, huyện Ðắc R'lấp-Ðắk Nông và xã Lộc Bảo, huyện Bảo Lâm-Lâm Ðồng.” Tác giả viết. “Thủy điện Ðồng Nai 6 có công suất 180 MW do Công ty CP Ðức Long Gia Lai làm chủ đầu tư. Qua khảo sát, nhận thấy thủy điện có sự tác động đến môi trường do vùng ngập lòng hồ quá lớn làm ảnh hưởng tới rừng quốc gia Cát Tiên nên chủ đầu tư xin hiệu chỉnh quy hoạch thành hai dự án Ðồng Nai 6 và Ðồng Nai 6A nằm tại huyện Ðắk R'lấp-Ðắk Nông, huyện Cát Tiên-Lâm Ðồng và huyện Bù Ðăng-Bình Phước.

Còn thủy điện Ðồng Nai 8, vào ngày 23 Tháng Bảy, Bộ Xây Dựng đã có văn bản gửi Bộ Công Thương đề nghị điều chỉnh quy hoạch để giảm thiểu diện tích ngập và hạn chế ảnh hưởng đến Vườn Quốc Gia Cát Tiên; đồng thời phải làm rõ những ảnh hưởng của công trình đối với môi trường sinh thái động thực vật của vườn.

Bộ Xây Dựng cho rằng thủy điện Ðồng Nai 8 có mực nước bình thường là 124 m, công suất lắp máy chỉ 195 MW, song diện tích đất ngập tự nhiên của lòng hồ lại lớn. Trong dự án này, UBND tỉnh Ðồng Nai cũng kiến nghị hiệu chỉnh quy hoạch dự án thủy điện Ðồng Nai 8 từ một bậc (chỉ có thủy điện Ðồng Nai 8) thành 5 bậc thang thủy điện cột nước thấp với tổng công suất lắp máy 164 MW, để hạ diện tích đất ngập còn 361 ha.”

* Nguy cơ lớn cho Sài Gòn

Ðó là mới nói tới chuyện phá rừng. Thời gian qua, việc xả đập do bị lũ lớn tại thủy điện A Vương-Quảng Nam và thủy điện Sông Ba Hạ-Phú Yên đã gây hậu quả nặng nề. Do đó, người dân Sài Gòn và vùng hạ nguồn sông Ðồng Nai có lý do để quan ngại nếu sự việc tương tự xảy ra tại các thủy điện trên sông Ðồng Nai. Trả lời báo Người Lao Ðộng, nguyên cục trưởng Cục Ðê Ðiều và Phòng Chống Lụt Bão Nguyễn Ty Niên cũng nhận định, “Hệ thống thủy điện sông Ðồng Nai là nguy cơ rất lớn cho Sài Gòn vì có nhiều bậc thang lớn, trong khi hồ chứa nào cũng rất to.”

Ông Lê Ngọc Sanh, phó chủ tịch huyện Cát Tiên, cho biết gần đây, năm nào huyện cũng xảy ra những trận lũ kinh hoàng vì tình trạng ngăn đập làm thủy điện trên sông Ðồng Nai. Hiện một số người dân của huyện này đang rất khổ sở vì không thể ổn định để sinh sống do năm nào lũ cũng cuốn phăng nhà cửa, ruộng nương.

Thạc Sĩ Nguyễn Xuân Vinh, quyền trưởng phòng Nghiên Cứu Sinh Thái Viện Sinh Học Nhiệt Ðới, cho rằng đập Trị An là bậc thang thủy điện đầu tiên trên sông Ðồng Nai nhưng lại xây dựng không có công trình cầu vượt (thang cá) cho các loài thủy sản nên đã chặn đường di cư của các loài thủy sản quan trọng và nguồn lợi thủy sản có giá trị.

Còn các đập thủy điện khác đã làm thay đổi sâu sắc về môi trường, chế độ thủy văn vùng hạ lưu, mất các ghềnh, thác nước chảy nhanh và một số vùng đất ngập nước quan trọng. Theo ông Vinh, nếu đập Ðồng Nai 3, 4 đi vào hoạt động sẽ tác động tiêu cực đến hệ sinh thái Bàu Sấu và mất tính đa dạng sinh học của sông Ðồng Nai.

Theo ông Nguyễn Thế Hùng, một giáo chúc ngành Thủy Ðiện-Thủy Lợi, Ðại Học Bách khoa, Ðại Học Ðà nẵng, thành viên Ban Chấp Hành Hội Cơ Học Việt Nam, phó tổng thư ký Hội Cơ Học Thủy Khí VN, thì “hiện nay, các hồ chứa nước để phát điện còn tham lam trữ nước, vì người quản lý hồ sợ dự báo không đúng sẽ làm thiệt hại nguồn nước phát điện của họ.”

Ðó là lý do xảy ra thảm họa ở miền Trung và cư dân Sài Gòn và khu vực hạ lưu sông Ðồng Nai sẽ phải gánh chịu sau này.

Vanga bắt đầu đưa ra những lời tiên tri từ năm 16 tuổi


Một biến động có tính lịch sử của Thế giới dự kiến sẽ xảy ra vào thời điểm 21/12/2012

Thông tin này căn cứ vào đâu?


1. Lịch tôn giáo của người MAYA kết thúc vào 2012
Văn minh Maya có một loại lịch gọi là lịch tôn giáo (religious calendar).:
Muời ba ngày là một tuần, hai mươi tuần là một năm.
Một năm lịch tôn giáo của người Maya chỉ có 260 ngày.
Người Maya tính toán lịch của họ theo tròn chu kỳ tồn tại của trái đất, mà chu kì hiện tại kết thúc vào năm 2012.
Không phải lịch của người Maya kết thúc là lúc thế giới kết thúc.
Nhưng liên hệ mốc thời gian này với các tài liệu của thiên văn học (Astronomy) và vật lý thiên văn (Astrophysics) ta thấy có nhiều sự kiện trùng hợp:

2. Tất cả các hành tinh trong hệ mặt trời đều nằm trên một mặt phẳng dẹt gọi là Ecliptic.

Theo tính toán của Thiên văn học, Năm 2012 các hành tinh trong hệ mặt trời thẳng hàng với nhau. Điều này theo tính toán của NASA là đúng như vậy.


http://i76.photobucket.com/albums/j15/phamdoan/solarsystem_g.jpg




Lực hút từ một loạt các hành tinh thẳng hàng tác động lên mặt trời sẽ làm nhiều điểm trên mặt trời gọi là sun-spot sẽ bắn tung các cơn bão lửa solar- flares về phía các hành tinh . Hiện tượng này gọi là coronary mass ejection (CME). Thực chất solar flares là mảnh bể vụn của mặt trời chứa đầy điện tích. Năm 2001 CME đã tạo solar flare đánh trúng vào Bắc Mỹ làm ngắt điện một vùng rộng lớn.


3. Hiện tượng Galactic alignment
Cũng vào 2012, hệ mặt trời (hình đĩa dẹt) của chúng ta lại chuyển dịch đến vị trí cắt ngang Dãi Ngân Hà (Milky way galaxy), nghĩa là nằm cùng một mặt phẳng với dãi Ngân Hà: Galactic alignment







4. Những tính toán cho thấy có nhiều khả năng đổi cực của Trái đất: Polar shift.
Trong tự nhiên Mặt trời thay đổi cực liên tục khoảng 11 năm một lần, còn trái đất thì luôn ổn định cực. Lần vừa rồi mặt trời đổi cực vào năm 2001.. Với hiện tượng galactic alignment vào 2012, lần này sự đổi cực của mặt trời có khả năng kéo theo sự thay đổi cực trên trái đất.

5. Trái đất nóng lên, băng tuyết tan nhanh
Bên cạnh những dự kiến về biến động thiên văn sắp xảy ra vào 2012, là sự kiện trước mắt về hiện tượng nóng lên nhanh của trái đất. Khôi băng hai cực đang tan chảy nhanh hơn dự kiến.

Dự ngôn của lịch pháp Mayan: Năm 2012 nhân loại sẽ đi hướng về một nền văn minh hoàn toàn mới ?


Giác Minh

Căn cứ vào lịch Pháp dài của người Mayan (Long count calendar), ngày 21 tháng 12 năm 2012 sẽ là ngày nền văn minh nhân loại kỳ này kết thúc. Sau đó, nhân loại sẽ đi vào một nền văn minh mới không có quan hệ với văn minh kỳ này.

Người Mayan không có đề cập đến nguyên do nào mà khiến nền văn minh kỳ này kết thúc. Có một điểm xem như rất rõ rệt là cái ngày kết thúc này không có ngụ ý xảy ra kiếp nạn lớn nào, mà là ám thị một thứ tỉnh giác và biến chuyển ở trong tinh thần và phương diện ý thức của nhân loại (Cosmic Awareness and Spiritual Transition). Từ đó mà đi vào nền văn minh mới.

Người Mayan không có kỹ thuật khoa học hiện tại như chúng ta, nhưng họ tinh thông đối với thiên văn lẫn toán học khiến người đời thán phục kinh ngạc. Ngoài ra, họ rất có nhiều ẩn đố khiến người đời đoán không thấu. Họ có những con đường phát triển, nhưng lại không sử dụng bánh xe, như vậy họ sẽ không cần thiết ép buộc con trâu ngựa, nhưng họ lại biết đến bánh xe, tại vì người đời sau phát hiện những đồ chơi cho trẻ em của họ làm bằng bánh xe. Họ rất dễ dàng thì có thể đem hình đồ mặt sau của mặt trăng khắc trên cửa của miếu Thần mặt trăng xem như trang trí, khiến khoa học gia của chúng tôi vừa bắt đầu suy đoán không thấu hiểu, đợi đến khi khoa học gia chứng thực đó là hình tượng sau mặt trăng lại suy nghĩ không ra: Tại sao họ thấy được vậy? Tại vì mặt trăng luôn hướng với địa cầu chỉ một mặt thôi. Đây có lẽ là tại vì ý thức vũ trụ của họ từng ban cho họ trí tuệ đặc thù, người Mayan từng có một thể hệ tu luyện của chính họ (Xem hình). Người Mayan đang trong lúc nền văn minh phồn thịnh nhất của họ mà biến mất không để lại dấu vết, khiến người đời sau suy nghĩ tận sức cũng không đoán ra lý do gì ở trong ấy.

Vào năm 1521, người Tây Ban Nha xâm nhập vào chỉ được thành phố hoang vắng mà người Mayan đã bỏ rơi. Người Tây Ban Nha đã hủy hoại đại đa số văn tự ghi chép của người Mayan để lại, chỉ còn lại ba cuốn sách nên khiến người đời sau khó mà phiên dịch để hiểu rõ về văn hoá của họ.

Người Mayan tuy nhiên sớm đã biến mất, nhưng đã để lại lịch Pháp, mà còn dự đo tính được mấy ngàn năm sau điểm chung kết của văn minh kỳ này———ngày 21 tháng 12 năm 2012. Họ đã để lại cho ai coi đây?

Căn cứ vào lịch Pháp dài của người Mayan, ngày 21 tháng 12 năm 2012 là cái Baktun thứ mười ba của ngày cuối cùng, người Mayan đã ghi 13. 0. 0. 0. 0. Trưóc hết chúng tôi nên học tập một ít về phương pháp ghi số của người Mayan:Số ngày/Thuật ngữ

1/Kin (ngày)

20/Unial (con số then chốt quan trọng của lịch Pháp Mayan là 20)

360/Tun

7200/Katun

144000 / Baktun

Thí dụ; 6. 19. 19. 0. 0 tương đương 6 cái Baktun, 19 cái Katun, 19 cái Tun, 0 cái Unial, 0 cái Kin, tính toán ra là bằng 6 x 144000 + 19 x 7200 + 19 x 360 = 1007640 ngày.

13. 0. 0. 0. 0 = 13 x 144000 = 1872000 ngày, tính ra là 5125.. 26 năm. Căn cứ vào sự tính toán của Eric S. Thomson, 0. 0. 0. 0. 0. của người Mayan tương đương với thứ 584283 ngày của Julian, tức là ngày 11 tháng 8 năm 3114 trước Công nguyên. 13. 0. 0. 0. 0 thì là cái ngày sau 5125 năm, tức là Công nguyên ngày 21tháng 12 năm 2012.

Tại vì người Mayan là Đại Sư quan sát thiên thể (Skywatchers) , những học giả nghiên cứu văn hóa Mayan đã kỹ lưỡng nghiên cứu thiên tượng sẽ xuất hiện vào ngày 21 tháng 12 năm 2012, đã hiểu rõ ràng tại sao người Mayan đã đem ngày này đặt là ngày chung kết của nền văn minh kỳ này. Ngày này là ngày Đông chí (Winter Solstice). Đây là ngày mặt trời sẽ hoàn toàn trùng hợp với giao điểm mà hình thành bởi Hoàng Đạo (Ecliptic) và Xích Đạo (Eqator) của Hệ Ngân Hà.

Lúc này mặt trời vừa ở trong khe hở của hệ Ngân hà, nói cách khác thì hệ Ngân hà “tọa lạc” trên địa cầu, giống như đã mở một cánh cửa “Thiên môn” cho Địa cầu.

Hình 2. Giữa 6000 năm trước Công nguyên đến 2012,

quá trình trùng hợp của Hệ Ngân hà với mặt trời khi Đông Chí.

Công nguyên năm 755, dự ngôn của một vị tăng Mayan:

Sau năm 1991, nhân loại phải xảy ra hai sự việc trọng đại——-Sự tỉnh giác ý thức vũ trụ của nhân loại và tịnh hóa và tái sinh của địa cầu. Trên thực tế, người Mayan đã đem hai mươi năm cuối cùng của cái Baktun thứ mười ba (cuối cùng nhất của cái Unial, tức là năm 1992 đếnnăm 2012) gọi là địa cầu tái sinh hoặc thời kỳ tịnh hóa (Earth Regeneration or Earth Purification Period).

Thật ra, trong sinh hoạt hằng ngày chúng ta thường xuyên có thể thấy được sự nhắc nhở đối với tương lai, chỉ bất quá con người không quan tâm đến. Chúng ta sử dụng mỗi ngày tờ giấy bạc một đô la ở mặt sau cũng có một dự ngôn giống nhau. Trong đó có một ấn chương (seal) là hình Kim Tự Tháp, Kim tự Tháp này có 13 tầng, trên ngọn cuối của tầng 13 Kim Tự Tháp có một trí tuệ chi nhãn tỏa ra ánh sáng rực rỡ, ở đây đã dự báo sự tỉnh giác của nhân loại sau khi đi hết 13 cái Baktun. Nghĩa của Annuite Coeptis là : Thần đang quan tâm đến những gì chúng ta đã làm; Novus Ordo Seclorum có nghĩa là: Thứ tự mới của Tân Thế Kỷ.

Hiện giờ chúng ta sinh hoạt ở thời đại tôn sùng vật chất, người thời nay chủ yếu quan tâm là tiền bạc, người đẹp, dục vọng, hưởng lạc, thành tựu, quyền lực và địa vị. Những người không có hứng thú đối với những thứ này cũng chỉ có thể đành phải vẫy vùng khổ cực trong đời sống ô trọc này. Do vậy mà dẫn đến băng hoại của thế giới tinh thần cho con người đã trở nên tầm thường, đối với tà ác, tàn bạo, chiến tranh, thiên tai, ôn dịch, nghèo đói, chủ nghĩa khủng bố và điên cuồng của hiện tượng hỗn loạn xã hội cũng dần dần tê liệt. Rất ít người có thể ý thức được nhân loại xã hội đã đang đi hướng tới con đường tự hủy diệt.

Với xã hội ham muốn thể xác lẫn vật chất như vậy, lực lượng nào có thể tịnh hóa địa cầu được? Khẳng định không phải nhờ vào sự cưỡng ép quản chế của luật pháp và chính phủ, tại vì luật pháp do người đặt ra, là có sơ hở, những kẻ trái pháp có thể nhờ vào địa vị, quan hệ và tiền bạc mà lẫn trốn sự trừng phạt. Ngoài ra, luật pháp chỉ có thể chế tài hành vi trông thấy được của con người, nhưng không thể nào ràng buộc nội tâm không thấy được của con người. Đương nhiên càng không thể nào nhờ vào cái gọi là đột phá của khoa học, tại vì chính là khoa học khiến nhân loại càng ngày càng theo đuổi hưởng thụ vật chất và xa rời lương tâm đạo đức.

Thứ lực lượng khiến Đạo đức của nhân loại thăng lên trở về chỉ có thể đến từ tỉnh giác của nhân loại, cũng có thể nói nhân loại cần phải phản tỉnh, mà còn nhất định phải có số lượng tương đối nhiều. Nhưng mà tại một xã hội đầy dẫy cám dỗ mê hoặc và áp lực sinh tồn như vậy, nhân loại phản tỉnh đâu có dễ dàng! Càng không thể nào nhiều người cùng nhau tham dự phản tỉnh! Tại vì nếu như có riêng cá nhân muốn phản tỉnh, sự ảnh hưởng đã tạo thành đối với xã hội cũng là tương đối có hạn. Có lẽ có thể tịnh hóa cá nhân, trên căn bản không thể nào gây nên tác dụng “Tịnh hóa địa cầu”.

Căn cứ vào lịch Pháp Mayan. Năm 1992 là năm thứ nhất của cái 20 năm cuối cùng (20 năm là một cái unial, lịch pháp Mayan gọi 20 năm cuối cùng này là “Thời kỳ canh tân địa cầu”) của cái Baktun cuối cùng (cái thứ 13)..

Quan sát việc lớn gần 10 năm nay (1992 – 2001), Nostradamus. Dự ngôn “thế kỷ” của Nostradamus rằng, tháng 7 năm 1999 sẽ xảy ra một sự việc trọng đại. Sự việc này là một ký hiệu quan trọng, từ nay đã mở màn cuộc giao chiến giữa Chính Tà. Hầu như đa số dự ngôn của Nostradamusđều mơ hồ trên thời gian, nhưng lần này lại khác thường, lần đầu tiên rõ ràng ghi xuống tháng 7 năm 1999, thời gian chính xác như vậy,

Loại ảnh hưởng có tính cách toàn cầu này cuối cùng cũng sẽ dẫn đến mọi nhà đều nghe và hiểu rõ, khiến mỗi một người trên địa cầu này đều có cơ hội (có lẽ không những một lần) phản tỉnh đối với sự việc này, rồi đưa ra phán xét và định đoạt.

Mấy ngàn năm trước người Mayan đã căn cứ vào thiên tượng mà ghi ra dự ngôn, con người tỉnh giác sẽ phải hoàn thành sứ mạng thần thánh “tịnh hóa địa cầu”, vào ngày 21 tháng 12 năm 2012, nhân loại sẽ đi hướng về nền văn minh hoàn toàn mới.

Theo tính toán của Thiên văn học, Năm 2012 các hành tinh trong hệ mặt trời thẳng hàng với nhau.. Điều này theo tính toán của NASA là đúng như vậy.
Lực hút từ một loạt các hành tinh thẳng hàng tác động lên mặt trời sẽ làm nhiều điểm trên mặt trời gọi là sun-spot sẽ bắn tung các cơn bão lửa solar- flares về phía các hành tinh . Hiện tượng này gọi là coronary mass ejection (CME). Thực chất solar flares là mảnh bể vụn của mặt trời chứa đầy điện tích. Năm 2001 CME đã tạo solar flare đánh trúng vào Bắc Mỹ làm ngắt điện một vùng rộng lớn.

Hiện tượng Galactic alignment
Cũng vào 2012, hệ mặt trời (hình đĩa dẹt) của chúng ta lại chuyển dịch đến vị trí cắt ngang Dãi Ngân Hà (Milky way galaxy), nghĩa là nằm cùng một mặt phẳng với dãi Ngân Hà: Galactic alignment.

Những tính toán cho thấy có nhiều khả năng đổi cực của Trái đất: Polar shift

Trong tự nhiên Mặt trời thay đổi cực liên tục khoảng 11 năm một lần, còn trái đất thì luôn ổn định cực. Lần vừa rồi mặt trời đổi cực vào năm 2001. Với hiện tượng galactic alignment vào 2012, lần này sự đổi cực của mặt trời có khả năng kéo theo sự thay đổi cực trên trái đất.

Trái đất nóng lên, băng tuyết tan nhanh

Bên cạnh những dự kiến về biến động thiên văn sắp xảy ra vào 2012, là sự kiện trước mắt về hiện tượng nóng lên nhanh của trái đất. Khôi băng hai cực đang tan chảy nhanh hơn dự kiến.

Sự trùng hợp thời điểm 2012 với một số tiên tri trong một số lớn các tôn giáo

Tài liệu nêu trên được biết đến với tên gọi là Dresden Codex. Cuốn sách cổ 74 trang này được viết trên vỏ cây tại đền thờ nổi tiếng của người Mayan và đã được nghị viện Tây Ban Nha gửi cho vua Charles V vào năm 1519. Bằng cách nào đó nó lưu lạc tới cung điện Saxony ở Dresden và được tìm thấy bởi nhà sưu tập Johanne Christian Goetze. Các tài liệu này vẫn còn được giữ lại sau khi bị tấn công bởi bom ở đại chiến thế giới lần thứ 2.
Tài liệu bao gồm nhiều số liệu về chuyển động của Mặt Trăng, Sao Kim, chu kì các nhật nguyệt thực, Mặt Trời và các sao …. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng điểm kết thúc của lịch Mayan được đánh dấu là 13.0.0.0.0 tương ứng với lúc 10 giờ sáng ngày 21 tháng 12năm 2012 tính theo lịch chúng ta đang sử dụng. Vào thời điểm đó, quỉ địa ngục sẽ xuất hiện và đó là ngày cuối cùng của chúng ta.

Theo các nghiên cứu của Stephen Yulish (một nhà nghiên cứu thiên văn học và UFO), nhiều mối liên hệ trong sách kinh thánh cho biết vào một ngày đông chí khi Mặt Trời ra xa nhất khỏi Trái Đất cùng lúc với các trận bão của Mặt Trời, rồi sự dịch chuyển bất thường của Sao Kim sẽ gây ra động đất liên tiếp cho chúng ta. Liệu điều này có liên quan đến những tiên đoán của lịch Mayan
Theo một số nhà thiên văn học thì vào ngày này hệ Mặt Trời của chúng ta sẽ đi qua mặt phẳng xích đạo của thiên hà, một điều chỉ xảy ra theo mỗi chu kì 26.000 năm. Lịch của người Mayan bắt đầu từ năm 3114 trước công nguyên, tức là họ chưa hề có cơ hội kiểm chứng điều nêu trên. Người Mayan gọi sự kiện này là cái cây thánh, nó sắp xếp sự thẳng hàng của Hệ Mặt Trời với trung tâm thiên hà theo mặt phẳng chính, điều đó có nghĩa là hấp dẫn tác động lên Hệ Mặt Trời khi đó sẽ là cực đại.
Theo những thông tin về động đất tại cục địa lý Hoa Kì, các trận động đất của chúng ta ngày càng lớn hơn do hậu quả của những chuỗi chấn động trong những năm 1890 đến 1899 và từ 2000 đến 2004, độ lớn của những trận động đất này đang tiếp tục tăng lên khi chúng ta tiến đến gần mặt phẳng chính của thiên hà.
NASA dự đoán rằng một trận bão Mặt Trời vào năm 2012 sẽ gây ra những chấn động lên Trái Đất lớn gấp 30 đến 50 phần trăm so với bất cứ sự tác động nào trước đây ta đã biết. Yulish tin rằng việc này sẽ làm nóng hành tinh của chúng ta và nó có liên quan trực tiếp đến sự xuất hiện của các vết đen Mặt Trời, Mặt Trời sẽ nóng hơn và sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp tới Trái Đất. Một vụ nổ bất chợt trên Mặt Trời vào thời điểm 2012 đó có thể phóng 1 khối lượng lớn đến va chạm với Trái Đất giống như việc chúng ta va chạm với một tiểu hành tinh hay sao chổi.
Khi việc đó xảy ra, có thể một lần nữa trục của Trái Đất sẽ thay đổi và hiển nhiên sẽ ảnh hưởng đến sự quay của Trái Đất. Nếu như điều đó sẽ xảy ra vào ngày 21 tháng 12 năm 2012 sắp tới, đó sẽ là một ngày rất đáng nhớ, với tất cả chúng ta!
10 dieu can lam cho ngay 2012 Sắp Đến Gần

....

VANGA (Vangelia Pandeva Dimitrova) (1911- 1996)

Đêm mùa đông tháng 1/1941, bóng tối bao phủ làng Rupite hẻo lánh ở vùng biên giới Bulgary bỗng chốc bị xé toang bởi sự xuất hiện của một người lạ mặt có ánh sáng mờ ảo vây quanh.. Bóng ma đi thẳng tới ngôi nhà của cô gái mù Vanga và nói như ra lệnh:

“Thế giới đang đứng trước hủy diệt. Con phải mách bảo nhân loại cần làm gì”.

Kể từ đó Vanga - tên đầy đủ là Vangelia Pandeva Dimitrova - chính thức bắt đầu sự nghiệp “cứu nhân độ thế” bằng những lời tiên tri huyền thoại.

Cô bé Vanga tóc vàng mắt xanh đã sớm mất mẹ từ khi còn rất nhỏ, không lâu sau đó người cha nhận lệnh gia nhập quân đội Bulgary. Sau Thế chiến thứ nhất, mấy cha con sống chật vật trong nông trại hoang tàn. Dù vậy, hoàn cảnh thiếu thốn không làm bé Vanga thôi yêu thích trò chơi “chữa bệnh” - ấy là khi cô tập tàng “kê đơn thuốc” cho bạn bè quanh mình. Một ngày nọ bão lớn ập đến làng. Trời bỗng chốc tối sầm như đêm phủ, cuồng phong thổi tung cây cối, mái nhà, và không hiểu bằng cách nào một cơn lốc xoáy đã nhấc bổng cô bé Vanga 12 tuổi lên không trung và ném xuống cánh đồng xa tít tắp. Sau nhiều nỗ lực tìm kiếm, dân làng cũng đã tìm thấy Vanga nằm bất tỉnh với hai hốc mắt lấp đầy cát bụi.

Cô bé trở thành khiếm thị kể từ đó. Chữa trị cách nào cũng không khỏi, Vanga chỉ còn nước cầu nguyện tới Thuong De, may mắn, bé đã sớm phát triển được giác quan thứ 8 vô cùng nhạy bén.

Vanga bắt đầu đưa ra những lời tiên tri từ năm 16 tuổi. Theo lời bà kể lại, trước hôm “bóng ma phát sáng” xuất hiện một vài đêm, cô đã liên tục mơ thấy có một nhân vật siêu phàm tới gặp cô và trao cho sứ mệnh cao cả.

Những năm Thế chiến thứ Hai là khoảng thời gian Vanga tạo dựng được lòng tin nhiều nhất. Không biết bao nhiêu người đã tìm đến cô để được nghe “phán” người thân của họ ở chiến trường còn sống hay đã mất, thi thể họ được chôn cất ở đâu. co co the mô tả chi tiết để giúp cha bà tìm lại con cừu bị kẻ trộm bắt đi. Tuy nhiên, năng lực tiên tri của bà chỉ thật sự đạt đỉnh cao từ độ tuổi 30. Rất nhiều nhà lãnh đạo quốc gia từng tới thăm bà để tham vấn, trong số đó có cả A. Hít-le.

Trước khi nổi tiếng khắp trong nước và quốc tế, Vanga đã từng bị chính quyền Bulgary bỏ tù bởi lời tiên đoán cái chết của lãnh tụ Stalin. Một năm sau bà được thả từ do - ấy là khi Stalin đã từ trần thật. Dù vậy kể từ đó, Vanga luôn tỏ ra thận trọng với những lời tiên đoán về thảm hoạ toàn cầu hay số phận của các nguyên thủ. Bà chỉ tiết lộ với một số người nhất định, nhằm tránh gây hoang mang cho dân chúng.

Người phụ nữ bóng đêm có lời tiên tri thần thánh.

Giải thích về năng lực tiên tri siêu việt của mình, bà nói rằng bà có được thông tin từ những hình nhân xa lạ, tuy người thường không nhìn thấy được, nhưng bà có thể giao tiếp với họ, cho dù chính bà cũng không thể giải thích được nhiều về nguồn gốc của họ. Theo bà, họ tới từ một thế giới khác - hành tinh có tên gọi là Vamphim, đó là hành tinh thứ ba tính từ trái đất, và họ đã từng sống trên trái đất từ nhiều năm nay. Khi có người đứng trước mặt bà, thì toàn bộ cuộc đời của họ từ khi sinh ra cho tới ngày tận thế hiện lên như những thước phim sống động, bà có thể đọc ra tất cả nhưng không thể thay đổi được điều gì. Điều này không ai có thể kiểm chứng, tuy nhiên khả năng tiên tri của bà thì đã được chứng thực và đã khiến bà trở thành một nhân vật vô cùng đặc biệt.

Bà Vanga là người thất học, không hề viết sách, và nói bằng thứ ngôn ngữ rất khó nghe (những buổi truyền hình trực tiếp bằng tiếng Bungari về bà phải có phụ đề cho chính đồng bào của bà nghe), do đó những lời tiên tri của bà thường được những người giúp việc chuyển ngữ lại, còn những cuốn sách cũng là do người khác tập hợp và biên soạn. Dưới đây là những lời tiên tri đáng quan tâm nhất.

Lời tiên tri nổi tiếng nhất diễn ra năm 1980, khi bà khẳng định:

"Trên ngưỡng cửa thiên niên kỷ, vào tháng 8/1999 hoặc năm 2000, Cuốc-xcơ sẽ bị nhấn chìm trong nước, và cả thế giới sẽ cùng trục vớt nó".

Rất ít người nhớ tới những câu nói định mệnh đó, phải đợi 20 năm sau, đúng vào tháng 8/2000, thế giới ngỡ ngàng trước việc tàu ngầm hạt nhân Cuốc-xcơ của Nga bị chìm tại biển Bắc.

Năm 1989, bà nói:

"Kinh hoàng, kinh hoàng! Những người anh em Mỹ ngã xuống vì bị các con chim sắt tấn công. Lũ sói đang tru lên trong bụi cây, còn máu của những người vô tội đang chảy".

Nếu lực lượng an ninh của Mỹ lưu ý tới những lời này, họ có thể thấy trước thảm họa 11/9: tòa tháp đôi (song sinh, hay những người anh em) bị máy bay (chim sắt) đâm vào, và tên của Tổng thống Mỹ khi đó là Bush (tiếng Anh có nghĩa là bụi cây).

Về sự trỗi dậy của nước Nga, tháng 1/1988 bà tiên đoán:

"Chúng ta chứng kiến sự kiện cực kỳ quan trọng. Hai nhà lãnh đạo lớn bắt tay nhau. Nhưng chúng ta phải đợi khá lâu, trước khi thứ Tám lộ diện và ký kết thỏa thuận về trái đất".

Thực tế diễn ra đúng như vậy: Goóc-ba-chốp và Rêi-gân đã bắt tay nhau, nhưng phải đợi tới khi nước Nga trở thành cường quốc, tham gia nhóm G7 để biến nó thành G8 (thứ Tám) và can dự sâu hơn vào tiến trình chiến tranh hay hòa bình trên trái đất.

Nhưng có lẽ tiên đoán đáng quan ngại nhất của bà Vanga là về Chiến tranh thế giới thứ 3. Nhiều lời tiên tri của bà liên quan tới xung đột vũ trang tại Nam Ossetia và trong thế giới của những người Hin-đu, những vụ mưu sát các nhà lãnh đạo các quốc gia... để rồi dẫn tới Chiến tranh thế giới thứ 3 sẽ xảy ra vào năm... 2010! Có lẽ, chúng ta cần quan tâm hơn tới những lời tiên tri của người đàn bà mù đã quá cố, ít nhất là để tránh cho trái đất khỏi những thảm họa do chính con người gây ra.

Trước khi mất, bà nói rằng 1 cô bé mù 10 tuổi sống tại Pháp đã thừa kế được năng lực tiên tri của bà và thế giới sẽ sớm biết về người đó.

Bà mất ở tuổi 96. Theo lời của Vanga,

-trong tương lai không xa sẽ xảy ra các vụ mưu sát 4 nhà lãnh đạo chính phủ.

-Những cuộc xung đột ở Indoustan (phần đất ở Nam Á bao gồm Ấn Độ, Afghanistan, Pakistan, Trung Quốc, Tây Tạng) sẽ là một trong những nguyên nhân chính mở màn cho cuộc chiến tranh thế giới thứ 3.

Năm 2010 - Năm bắt đầu cuộc chiến tranh thế giới thứ 3. Cuộc chiến tranh này sẽ bắt đầu vào tháng 11/2010 và kết thúc vào tháng 10/2014. Ban đầu, cuộc chiến tranh diễn ra bình thường, tiếp đó sẽ xuất hiện hàng loạt vũ khí hạt nhân và cuối cùng là vũ khí hóa học.

Năm 2011 - Không một loài động vật, thực vật nào ở Bắc bán cầu có thể sống được do kết quả của quá trình lắng cặn chất phóng xạ. Tiếp đó, những người Hồi giáo (người theo Đạo Hồi) sẽ bắt đầu một cuộc chiến tranh hóa học chống lại người Châu Âu..

Năm 2014 - Phần lớn loài người sẽ bị mắc chứng bệnh mưng mủ, ung thư da và các loại bệnh khác về da do hậu quả cuộc chiến tranh hóa học.

Năm 2016 - Châu Âu gần như không có người sinh sống.

Năm 2018 - Trung Quốc sẽ trở thành cường quốc thế giới mới. Những nước phát triển sẽ trở thành kẻ bóc lột các nước khác từ việc khai thác các nguồn tài nguyên khoáng sản.

Năm 2023 - Quỹ đạo Trái đất thay đổi.....

( nhung loi tien tri cua ba chinh xac den 70-80%)

THẾ CHIẾN 3 ĐANG GẦN KỀ (2010)!

Sự kiện 11 tháng 9 năm 2001 tại Hoa Kỳ (911), sấm ký Notradamus câu 1654 có ghi:

In the City of God there will be a great thunder, Two brothers torn apart by Chaos, while the fortress endures, the great leader will succumb”, The third big war will begin when the big city is burning”

(Tạm dịch: Nữu Ước sẽ có sấm sét lớn, Tòa Tháp Đôi vỡ nát trong hỗn mang, Ngũ-giác-đài chịu đựng, nước Mỹ sẽ sụp đổ, Chiến tranh thứ ba bắt đầu khi thành phố lớn bốc cháy).

Một số nhà nghiên cứu Mỹ giảng giải

-“New York” là “City of God”.

-“Two brothers torn apart by Chaos” là tòa Tòa Tháp Đôi

-. “Portress” là “Ngũ Giác Đài (Pentagon)”.

-“Great Leader” là “Hoa Kỳ”

-“the third big war” là “thế chiến thứ 3.”

Phải chăng thế chiến thứ ba ở thông điệp này chuyển từ 1999 sang 2001? Và, có liên hệ đến Hồi Giáo và Trung Cộng như những gì đang xảy ra?

(Sấm ký thường được viết dưới dạng ẩn dụ, rất khó mà đoán đúng được nghĩa. Những chữ dùng ở thời nhà tiên tri và ngày nay, cần phải suy đoán hết sức cẩn thận. Bởi thế sấm ký Trạng Trình của ta cũng khó mà luận giải nổi chớ đừng nói chi đến những sấm ký ngoại quốc).

Diễn dịch được 911 nhưng ở các câu khác thì... sai. Ví dụ như có người “giảng” rằng Hoa Kỳ sẽ có 1 nữ tổng thống và nước Mỹ tiêu tùng vào năm... 2012. Có lẽ vì ảnh hưởng chiến dịch tranh cử được chuẩn bị dài lâu của bà Hillary Clinton nên mới có lối “giảng” nước đôi này? Vừa quảng cáo cho bà, vừa cảnh cáo nếu dân Mỹ mà bầu cho bà thì nước Mỹ sẽ.... tiêu tùng năm 2012?

KÍNH MỜI QUÝ VỊ ĐỌC THÊM Ở:

http://ovthoibao. com/D_1-2_ 2-94_4-300/ TIEN-TRI- DOAN-CHAC- THE-CHIEN- THU-3-GAN- KE.html

Blog Archive

Counter