LTS: Những bài vở trên đây không nhất thiết là quan điểm của diễn đàn. Mục đích để đóng góp tài liệu tham khảo, tài liệu lịch sử làm phong phú thêm trí tuệ, làm sáng tỏ sự thật, vạch trần tội ác tập đoàn việt gian Cộng Sản. tội ác tên Giặc Hồ Chí Minh và bè lũ tay sai việt gian bán nước đã cố tình bưng bít, dấu kín, xuyên tạc lịch sử Việt Nam, giết hàng chục triệu người dân vô tội, bỏ tù hàng triệu quân cán chính VNCH, bán đất dâng biển, làm nô lê cho Tàu, Nga..v.v..
" Hiểu một thời đại nghĩa là phải lấy con tâm và con mắt lịch sử, nghiệm qua các thời đại để mà đứng trên nền tảng với điều kiện đó để mà hiểu thời đại đó.""[HH-trang45]
" Để phục hưng và phục hoạt, phải lấy một con mắt nghiêm ngặt Việt, đứng siêu nhiên trên lập trường Việt, thi thiết bằng những chính sách và kế hoạch siêu nhiên và nghiêm ngặt, có một thái độ nghiêm ngặt và siêu nhiên lịch sử Việt."[HH-trang45]



HOME-Tro Ve Trang Chinh




Sunday, March 21, 2010

TRẦN DANH CHƯƠNG-Truyền thống DÂN TỘC qua biểu tượng TIÊN RỒNG

Truyền thống DÂN TỘC qua biểu tượng TIÊN RỒNG

Trần Danh Chương

1. Tiền Đề Suy Tưởng

http://www.congdongnguoiviet.fr/Images/1003/LacLongQuanAuCo.jpgTheo Huyền Sử, Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ sinh được bọc trăm trứng nở ra trăm con. Một hôm Long Quân nói với Âu Cơ: “Ta là giòng dõi Rồng còn nàng giòng dõi Tiên ăn ở với nhau lâu không được. Nay nàng mang 50 con lên núi, còn ta đem 50 con đến Nam Hải”. Người con trưởng được Long Vương truyền ngôi, xưng Hùng Vương đặt Quốc-Hiệu là Văn-Lang, đóng đô tại Phong Châu.

Đó là nguồn gốc gia phả của dân tộc Việt-Nam, một dân tộc anh hùng có gần 5000 năm lịch-sử truyền-thống dựng nước và giữ nước một cách kiên cường.

Như con dân của tổ-quốc Việt-Nam, nhìn vào nguồn gốc đó chúng ta phải làm gì?

2.Nhân Tính Căn Bản

Nhân tính là yêu đẹp ghét xấu. Biết đẹp biết xấu là biết phân định. Đó là nguồn gốc của sự hãnh-diện tự hào. Hãnh diện là ngẩng đầu lên không thẹn với trời, cúi mặt xuống không hổ với đất và nhìn ngang không ngượng với đồng loại. Hổ thẹn, ngượng ngùng là biểu lộ của ý thức thua kém, của mặc cảm tự ti, phạm tội và đó cũng là những khởi điểm tâm lý dẫn đến suy nhược tinh thần, bi quan chủ bại.

Trên thế giới, những dân tộc tạo ra được những Quốc-Gia hùng mạnh là những dân tộc biết hãnh diện, tự hào về giòng dõi hơn đời và khả năng tiềm ẩn hơn người của chính mình. Nhật-Bản với niềm tự hào là con cháu của Thái-Dương Thần-Nữ. Người Đức tự hào là một dân tộc siêu-nhân. Những tự hào này (không, phải nói là tự-tôn mới đúng) có một mối liên hệ mật thiết có tính cách quy luật với sự cường thịnh của quốc gia này.

Nền tâm-lý ứng-dụng hiện-đại đã chứng minh được sự hữu-hiệu của lý-thuyết tự-hoàn-thành (self-fulfiling prophecy) nơi một cá-nhân khi cá-nhân này tự tin là mình sẽ hoàn tất tốt đẹp một công-trình hay sẽ trở nên một nhân-vật Lý Tưởng nào đó. Thiên tài chỉ là sự cố-gắng bền-bỉ. Sự cố-gắng bền-bỉ lại chỉ là mặt tích cực của lòng tự-tin. Khen ngợi và chê bai là những phương tiện hữu hiệu để nuôi dưỡng hay giết chết lòng tự tin nơi ta nơi người.

3. Ý Nghĩa của Biểu Tượng

Dân tộc Việt-Nam có một biểu tượng tuyệt vời: Tiên Rồng.

Tiên biểu hiệu của Thanh-Cao và Tự-Do.

Rồng là biểu-tượng của Uy-Quyền và Tài-Năng.


http://www.congdongnguoiviet.fr/Images/1003/Dragonvietnam.jpgĐó là phẩm tính có tính cách truyền-thống mà tổ-tiên đã để lại như một lý tưởng sống mà cháu con đời đời phải thực hiện. Những phẩm-tính truyền-thống này đã là những yếu-tố tạo nên tinh thần quật-cường, bất-khuất của dân tộc đủ sức chống lại mọi kẻ thù. Một ngàn năm bị Trung-Hoa đô hộ mà dân tộc Việt-Nam – chỉ riêng dân tộc Việt-Nam – không bị đồng hóa. Đó là một sự kiện đáng suy nghĩ. Mông Mãn là những chủng tộc hùng mạnh đã vào chiếm Trung-Hoa để cuồi cùng bị đồng hóa ngược bởi chính những người bị mình đô hộ đến độ mất cả đất, mất cả văn-hóa. Khả năng đồng hóa siêu đẳng của người Trung Hoa, cộng thêm uy thế của bạo lực và những thủ đoạn chính trị thâm độc được thực hiện trên đất nước Việt-Nam, cũng đã không tiêu diệt được tiềm năng đấu tranh của một giống nòi quật cường trừ việc tạo ra được một thiểu số trí-thức nông nổi, bạc nhược, mất niềm tin và lòng tự hào dân tộc .

Tiên còn là biểu tượng của một đời sống tinh thần phóng khoáng, thanh cao ưa nhàn tản và suy tưởng. Đời người được định giới bởi những hạn mốc của không gian và thời gian. Trên cái nhìn tuyệt đối, hạn mốc của không gian và thời gian chính là những cản trở ràng buộc của tương đối cần cởi bỏ để đi vào cõi vô cùng, bầu bạn tiêu dao với Đất Trời. Người vẫn được coi là một trong Tam Tài: Thiên, Địa, Nhân. Nhưng làm sao có thể sánh cùng Thiên Địa nếu không thể trở thành CHÂN NHÂN. Một con người đã sống trọn vẹn trong việc thực hiện lý tưởng sống đến độ bất tử và bất tử chỉ là một tên gọi Tuyệt Đối. Tiên được ghép bởi hai chữ Nhân và Sơn, vì Tiên vẫn thường tu luyện trên núi cao như trong câu "Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh". “Người ta sinh ra Là Người nhưng người ta còn phải Làm Người”. Tiên chính là lý tưởng sống làm người mà tổ tiên đã di chúc lại cho cháu con đời đời thực hiện. Sống một cuộc sống tự do hướng thượng. Sống với một tâm hồn đôn hậu bao dung. Vì Tiên cũng là một người có tấm lòng độ lượng nhân ái, như trong câu "Nhân giả ái sơn", kẻ nhân ái thích núi. Thành ngữ "Tiên phong đạo cốt" đã cực tả được cái phong thái ung dung điềm đạm của một nhân vật hơn đời đã dầy công hàm dưỡng, tu luyện: Trên thông thiên văn, dưới tường địa lý và trung tri nhân sự.

Rồng còn là biểu tượng của một đời sống thế tục với những qui luật và phép tắc biểu lộ ra bằng uy vũ, quyền lực. Rồng đứng đầu trong các loài thú vì vậy Vua vẫn thường dùng tượng Rồng để tỏ quyền uy trên trăm họ, và tỏ sự tôn quý cá nhân bằng cách đồng hoá với Rồng như mặt Rồng, bệ Rồng... Rồng phun mây và làm mưa, đó là tạo ơn mưa móc cho trăm họ của một xã hội nông nghiệp mà nước là một yếu tố tiên quyết để sống còn. Rồng thường dấu mình ở dưới nước như trong câu "Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh". Bản chất của Rồng là đại trí vì kẻ trí cũng thích nước như trong câu "Trí giả hiếu thủy". Vua là người đứng đầu một nước đặt định ra chính sách đường lối đem lại hạnh phúc cho trăm họ, không hoàn tất được trách nhiệm này tất phải mang tội. Câu "Hôn quân vô đạo" là một lời kết án nặng nề nhất, vì trí óc u tối thì làm sao nhìn ra đường lối làm cho dân giầu nước mạnh, làm sao có thể hoàn tất vai trò lãnh đạo, dẫn đường. Kẻ đại trí tất phải cơ mưu quyền biến, đầy đủ văn mô và vũ lược để kẻ đối đầu không sao lượng nổi, vì vậy Rồng thiêng không bao giờ lộ nguyên hình, lúc nào cũng mờ mờ ảo ảo trong mây khói, chợt hiện chợt biến.

4. Lý Tưởng Sống Hòa Hài và Cao Đẹp

http://www.congdongnguoiviet.fr/Images/1003/Tien.jpgNếu chỉ dùng biểu tượng Tiên với đức tính nhân ái thôi thì làm sao mà giữ được nước không bị nô dịch. Lấy ân báo oán hay tha thứ cho kẻ giết ta, giết cha mẹ vợ con ta là những việc làm chỉ có Chúa, có Phật mới có đủ tài sức để đảm đương. Từ Bi và Bác Ái là những lý tưởng tuyệt vời nhưng lạc lõng trong thế giới ngày nay. Nếu chỉ dùng biểu tượng Rồng với tài trí hơn người thì tránh sao được sự tàn ác, bất nhân, khi cần hạ thủ sẽ chẳng lưu tình để gây nên cảnh máu sông xương núi. Nhìn được vậy mới thấy sự kết hợp Tiên Rồng làm nên biểu tượng kép của tổ tiên chúng ta quả là cân xứng và điều hòa, không thái quá không bất cập. Đó là sự kết hợp giữa lòng nhân ái và tài trí, giữa tình và lý, giữa đạo đức và võ lực, giữa vật chất và tinh thần. Kết quả của sự phối hợp tình lý này là thái độ chiết-trung "Dĩ thực báo oán" lấy lòng ngay thẳng để báo oán, chứ không coi cá mè một lứa. Không phân biệt coi oán như ân, coi thù như bạn. Biểu tượng Tiên Rồng này chính là bản tóm lược triết lý hành động của dân tộc ta trong chính sách đối ngoại qua suốt các triều đại tự chủ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê...đối với Trung Hoa. Những người không am tường về dân tộc Việt Nam có thể sẽ thấy khó hiểu khi thấy kẻ chiến thắng lại đi cầu phong ở kẻ chiến bại, với những đồ triều cống như vàng bạc châu báu. Họ đâu có biết rằng Hòa Bình cũng quí như Tự Do đối với Việt Nam. Và khiêm tốn là sự khôn ngoan truyền thống nằm sâu trong ý nghĩa Tiên ẩn thân tại non cao và Rồng dấu mình tại vực sâu chờ thời "để kiến cơ nhi tác" làm đúng lúc và đúng cách bảo đảm sự vạn thắng. Núi là nơi của Tiên ở – Âu cơ mang 50 con lên núi – và sông biển là nơi của Rồng nằm – Long Quân đem 49 con xuống bể – vì vậy núi sông là quê cha là đất mẹ. Chữ Tổ Quốc có lẽ hơn đâu hết với Việt Nam mang một ý dạt dào tình cảm. Đó là đất của Tổ mà tổ tiên của ta là Tiên là Rồng. Nói đến đất nước là nói đến núi sông, là nghĩ đến Tiên Rồng. Sự liên hệ chặt chẽ này có thể nào là tình cờ chăng hay đúng là một sự cố nâng niu gìn giữ. Sự thống nhất và toàn vẹn của tổ quốc là một trong những nguyên tắc không thể vi phạm vì bất cứ một lý do gì.

Trăm trứng trong một bọc nở trăm con thì tình là anh em mà nghĩa là đồng bào. Vậy sự đoàn kết đồng tâm nhất trí cũng là một nguyên tắc không thể vi phạm vì bất cứ một lý do gì. Anh em như tay chân làm sao có thể đang tâm chặt bỏ? "Máu chẩy tất ruột mềm", "Một giọt máu đào còn hơn ao nước lã". Không theo lời di huấn của tổ Tiên thì chẳng phải chỉ là bất hiếu mà còn là bất trí vì đó là mầm mống của sự tự hoại, diệt vong của cả một giòng giống, một dân tộc.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, chữ Hiếu, chữ Trung chỉ là một. Đó là Đại Vương Trần Hưng Đạo đã không theo loạn-mệnh của phụ thân trước khi chết trối lại phải trả thù nên đã hết lòng phò vua giúp nước. Nguyễn Trãi cũng đã lấy Trung thay Hiếu không đi Kim Lăng phụng dưỡng cha già mà chọn ở lại phục quốc báo hiếu. Những bậc đại nhân như Tiên, các bậc đại trí như Rồng tất không vướng mắc vào những tiểu tiết giáo điều như bọn hủ nho cố chấp đọc sách và nệ vào sách coi tình nhà hơn nợ nước.

Ý niệm Tự Do Bình Quyền và Bình Sản là một lý tưởng mà loài người đang cố vươn tới cũng đã được gói ghém sâu kín trong biểu tượng Tiên Rồng. Con cái là tài sản tinh thần chung của vợ chồng. 50 con đã theo mẹ lên núi, 49 con đã theo cha xuống biển. Nhìn trên phương diện vật chất đó là bình sản, nhìn trên phương diện tinh thần đó là bình quyền giữa những người đồng đẳng. Với một xã hội thuần lý khoa-học, sự hiện thực lý tưởng Tự Do Bình Quyền và Bình Sản đã gập những khó khăn, những mâu thuẫn đến độ bế tắc. Lý tưởng Tự Do không thể đi đôi với lý tuởng Bình Quyền và Bình Sản.

Nên kỳ thị vẫn đầy dẫy. Tự do trở thành tự do phá hoại bóc lột và hỗn loạn, Tự do được dùng như là một mặt nạ che dấu sự ích kỷ tham lam và độc ác. Bình Sản và Bình Quyền cũng đã được xử dụng như là một chiêu bài để biện minh cho tội ác cướp bóc. Thế giới đang tố cáo sự vong thân của con người

khi theo đuổi những chủ thuyết hủy diệt nhân tính. Diều này lại càng làm cho chúng ta hãnh diện vì sự sáng suốt hơn đời của Tổ Tiên. Vấn đề chỉ có thể giải quyết bằng sự dung hòa tình lý, tâm vật. Tình cảm luôn luôn là yếu tố hệ trọng hàng đầu. "Thương nhau chín bỏ làm mười" và chỉ có bình đẳng khi đã có đồng đẳng và cũng chỉ có tình yêu mới làm cho con người cởi mở, rộng rãi đón nhận nhau, không kỳ thị, không phân biệt hẹp hòi như Long Quân là Rồng phối hợp với Âu Cơ là Tiên trong mối liên hệ vợ chồng thân thiết.

5. Ấn Tích Tác Quyền Văn Hóa

Xưa và nay vẫn còn có người mang ý nghĩ Nho Giáo là của Trung Hoa và Việt Nam là học nhờ viết mướn. Hậu quả là hai thái độ vọng ngoại vì phục vì sợ người và bài ngoại rồi đã phá Nho Giáo một cách thiếu suy nghĩ. Xin hãy nhìn vào biểu tượng tổ. Căn bản siêu hình của Nho Giáo là dịch lý của Âm Dương tương thôi, hai yếu tố Âm Dương ảnh huởng lẫn nhau thì đã được kiểu thức hoá bằng Âu Cơ Tiên Nữ và Lạc Long Thần Quân. Dịch Lý là sự biến đổi không ngừng, miên man khi hợp khi tan của Tiên Rồng. Có sự kết hợp nào keo sơn hơn kết hợp ái ân gái trai, và có sự nào chia ly bi thảm hơn sự chia ly tình nghĩa vợ chồng cha con? Tình thì nên theo những lý chẳng có thể cưỡng. Biết được Lý là do Trí nên Long Quân là người quyết định chia tay đúng thời đúng lúc.

Nho giáo đề cao tam cương, ba liên hệ căn bản của xã hội, vợ chồng, cha con, vua tôi, thì huyền sử Tiên Rồng cũng đã tóm lược rõ ràng, mở đầu bằng liên hệ vợ chồng: Tiên Rồng, đó là ý của câu "Phu thê, thiên địa chi đại đạo". Vợ chồng là đạo lớn trong trời đất. Rồi thì tình cha con, rồi thì tình nghĩa vua tôi mà Hùng Vương là biểu tượng.

Nho giáo còn đề cao giá trị của đạo đức để phát huy và thăng hoa nhân tính như Đức Nhân-Ái Đức Trí-Dũng thì biểu tượng Tiên Rồng đã bao hàm đủ. Nói đến lễ nghĩa thì cũng không qua biểu tượng Tiên Rồng. Nếu lể nghĩa là những tiêu chuẩn để giúp ta tu dưỡng thì sự tu dưỡng đạt đến mức thần Tiên là tuyệt đối. Nếu lễ nghĩa là những hình thức để phân định trật tự trong mối liên hệ xã hội thì có uy lực, có quyền thế nắm rường mối quốc gia như Long Quân là hết mức. Đức khiêm tốn được đề cao như là dấu chỉ của sự thấm nhuần lễ nghĩa của người quân tử, "Quân Tử thiện tàng" người quân tử giỏi nép mình – thì sự ẩn thân của Tiên, sự dấu mình của Rồng đáng để ta suy nghĩ.

Vậy thì biểu tượng Tiên Rồng đã gói ghém một cách sâu kín tất cả những nét cốt tủy đặc trưng của Nho Giáo nguyên thủy, được biểu hiệu như kết tinh của một nền văn hóa của đại dân tộc Bách Việt. Đó là bản di chúc của tổ Tiên để lại cho con cháu gồm những điều căn bản phải làm theo nếu muốn hùng cường thịnh vượng hãnh diện với người. Bản di chúc đó áp dụng vào việc trị nước an dân cũng tuyệt vời mà áp dụng vào việc tu dưỡng của cá nhân cũng toàn hảo. Hiểu thấu đáo biểu tượng tổ Tiên Rồng thì tất có thể nói là hiểu được truyền thống sống hòa hài của dân tộc, của một nòi tình được hướng dẫn bởi minh triết, bởi kinh nghiệm tích lũy của tổ tiên. Một nòi tình tất phải trọng tình cảm và nhân tình, không để lý lấn áp tình rồi trở thành lạnh lùng, bất nhân, độc ác. Điều này cũng có ghi trong huyền sử như một lời di huấn cho cháu con theo kiểu "ý ngoại ngôn tại" ý nằm ngoài lời. Đó là lý do tại sao Long Quân tượng trưng cho lý trí, pháp luật chỉ mang 49 con xuống biển để lại người con trưởng làm vua. Theo mẹ Tiên là theo tình tới 50 con, còn theo cha Rồng là theo lý chỉ có 49 con. Ý của Long Quân muốn dạy cháu con là không nên tận lý, hạ thủ phải lưu tình không nên cạn tàu ráo máng dù khả năng và uy thế có thừa. “Lưu tình” là vậy đó. Hùng Vương chính là điểm thăng bằng, "Chí trung hoà" của cán cân tình lý, thực hiện lý tưởng nội thánh ngoại vương. Người con trưởng xưng là Hùng Vương. Hùng đi với sức mạnh của vũ lực và luật pháp vì là theo cha là theo Lý. Tên nước đặt là Văn Lang, Văn đi với tình cảm nhu thuận. Kết hợp được tình lý, uy vũ và đức độ tất phải là bậc chân nhân, quân tử. Đức của người quân tử khi đã cùng cực rồi tất cảm hoá được người chung quanh thì nói gì dân chẳng nghe, khiến gì dân chẳng làm như gió thổi chiều nào cỏ rạt chiều đó. "Quân tử đức phong" – đức người quân tử ví như gió – và cũng vì vậy Hùng Vương mới đóng đô ở Phong Châu, vùng đất của gió vậy.

Ý nghĩa trọng tình cảm và nhân tính còn biểu lộ qua cách ghi lại bằng con số trong ngày tưởng nhớ tổ Tiên: Ngày 10 tháng 3 âm lịch. Việc định ngày này không phải là ngẫu nhiên, bâng quơ, không lý do và thiếu căn bản. Tháng ba tức là tháng Thìn, thìn tức Rồng trong mười hai con giáp, tháng ba là tháng bắt đầu có mưa nhiều ở vùng Á châu và đó là tháng nhà nông bắt đầu cầy bừa làm lúa vì Rồng là linh vật được tin là phun mây làm mưa ban ơn "mưa móc" cho trăm họ. Còn số mười được tượng trưng cho Tiên. Nếu viết theo chữ nho thì chữ THẬP, số 10 sẽ như một dấu cộng (+). Bản chất của Tiên là tự do phóng khoáng, không còn bị trói buộc bởi hạn giới của không gian và thời gian nên Tiên là bất tử, là tuyệt đối tức là không còn cái tâm phân biệt sống chết, xa gần. Đó là điểm triệt tiêu nằm giữa giao điểm của tung độ thời gian và hoành độ thời gian. Giao điểm này có thể là đại ngã như Phật Giáo, "Hài tử chi tâm" của Lảo Giáo, hay "Chỉ ư chí thiện" của nho giáo. Vậy kẻ có lòng nhân là rộng yêu, là bác ái không phân biệt, kỳ thị là thích núi vì núi tĩnh – Nhân giả ái sơn – kẻ nhân yêu núi và thể tĩnh là thể của trường tồn, bất tử tuyệt đối không còn đổi thay vậy.

Đặt Tiên trước Rồng, đặt mẹ trước cha, đặt ngày trước tháng cũng là cách nói lên sự quan trọng, sự ưu thắng của

tình trên lý, dù rằng trên thực tế, thì bên cha cũng lễ mà bên mẹ cũng bái, nghĩa là quí cả hai và chẳng thể bỏ ai được. Vì chỉ mất một thôi, cha lý hay mẹ tình thì chúng ta cũng sẽ đương nhiên trở thành "cô nhi" đứa con côi cút, sống vất vưởng lang thang trên đường đời.

6. Kết Luận

Tóm lại chỉ cần suy nghĩ về biểu-tượng tổ "Tiên Rồng" không thôi chúng ta có đủ lý chứng để tin tưởng là tổ tiên chúng ta hơn đời. Để có thể hãnh diên bằng người và sẽ hơn người, ngoài một niềm tự tin, và tự trọng tất yếu, chúng ta còn phải cố gắng thể hiện những tài năng tiềm ẩn của dân tộc cho cả loài người thấy để khâm phục. Làm được điều đó hay không là ở chúng ta những người còn dám nhận là Việt Nam.

Nhà có phúc là con phải hơn cha để làm rạng rỡ tông môn giòng họ, còn ít ra thì cũng cố gắng để "giấy rách giữ lấy lề". Muốn hơn được cha mẹ tổ tiên để làm vẻ vang cho dân tộc, vinh quang cho tổ quốc thì phải hiểu cái hay cái đẹp của tổ tiên để nối tiếp gìn giữ, phải thấy được cái nhầm cái yếu của cha ông để tránh, để sửa, nghĩa là phải nhìn ra được cái tính chất làm nên truyền thống của dân tộc trong suốt dọc dài lịch sử. “Vô thi bất mộ" vì không biết nên không yêu mến kính trọng. Người đời thường mù quáng coi rẻ khinh mẹ cha, tổ tiên như những "đồ hủ lậu dốt nát quê mùa". Ngành tâm lý học có nói đến thái độ nổi loạn vô ơn bạc bẽo (l'age ingrat) ờ cái tuổi dậy thì, tuổi khủng hoảng tâm sinh lý gây ra do những biến chuyển của cơ thể nơi người thiếu niên đang bước vào tuổi thành nhân. Đó là một cuộc khủng hoảng cơ cấu để trưởng thành.

Chúng ta như những con dân của Việt Nam đang lầm than đói khổ cũng đã trải qua cái tuổi nổi loạn, phá hoại, vô ơn bạc bẽo đối với tổ tiên, đối với cha ông khi nông nỗi chỉ thấy cái kém của mình mà không thấy được cái tuyệt vời của giòng giống. Khi nông nỗi chỉ nhìn thấy cái hào nhoáng của người để rồi đem lòng bồng bột ra kính phục một cách mù quáng đến độ vọng ngoại. Giòng lịch sử đã đưa vận nước nổi trôi qua những bến những bờ của ê chề tủi nhục. Dân tộc Việt Nam đã bị lừa gạt và khinh khi. Đã đến lúc chúng ta phải phản tỉnh như người du lịch đi khắp thiên hạ đã trở về quê cũ sau khi cảm nhận thấy: "chẳng đâu đẹp bằng cố hương yêu dấu" như một bài tập đọc trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp đồng ấu của thập niên 30-40

Xin hãy bình tâm suy nghĩ

Làm người Việt Nam không phải dễ!


Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa - TRẦN DANH CHƯƠNG


Friday, March 19, 2010

HÀ TĨNH - Hàng ngàn người đổ xô đi xem ‘rùa thần’ Ứng-Mạc-Tắc-Hình.

Hàng ngàn người đổ xô đi xem ‘rùa thần’

HÀ TĨNH - Hàng ngàn người ở tỉnh Hà Tĩnh đang đổ xô đi xem một con rùa được cho là 'rùa thần' do ông Nguyễn Hữu Tùng ở xóm 1, xã Hương Bình, huyện Hương Khê nhặt được.

Theo mô tả của Vietnamnet, 'rùa thần' có kích thước 10x15cm, nặng khoảng 0.5 kg, chân và cổ dài, mai rùa có nhiều hoa văn trông giống chữ Hán, đặc biệt rùa rất hiền, gần gũi với người.

“Rùa thần còn có hình dáng, màu sắc khác thường và đặc biệt biệt nó chỉ ăn chuối và không ăn thức ăn đã qua thờ cúng hoặc con người đã ăn rồi.”

Sau khi ông Tùng nhặt được “rùa thần” đã có hàng trăm người kéo đến xem và quay phim chụp hình.

Ông Tùng kể lại với Vietnamnet rằng, chiều tối ngày 15 tháng 7, 2009 (Âm lịch), ông và con trai trên đường đi bệnh viện về thì nhặt được con rùa này ở giữa đường làng, cách cửa đền “Phúc Ấm,” một ngôi đền được dân gian cho là rất linh thiêng thuộc xóm 1, xã Hương Long chừng 300m.

Từ ngày biết tin ông Tùng bắt được “rùa thần,” đã có rất nhiều lượt người kéo đến để xem. Tất cả họ sau khi được tận mắt chứng kiến con rùa đều có chung nhận định, đây là một con rùa rất khác thường.

Ðã có nhiều giả thuyết xung quanh con rùa được người dân đưa ra bàn tán, nhưng giả thuyết được nhiều người nhắc đến nhiều nhất, cho đó là con “rùa thần.” Việc người dân bàn tán chưa đi đến hồi kết càng khiến mức độ lan truyền về con “rùa thần thánh” ngày một rộng, thu hút nhiều người, kể cả các bậc cao niên đến xem.

Có người còn nói, sau khi biết được tin này đã có một số thương buôn tìm đến nhà hỏi mua con rùa này với giá rất cao, nhưng gia đình ông Tùng kiên quyết không bán.

Cụ Chư cho biết, trên mai rùa có 4 chữ theo ký tự đầu đến cuối đuôi là: Ứng-Mạc-Tắc-Hình.

Ly kỳ chuyện giải mã 'rùa thần'

, không chỉ đến xem mà nhiều người còn làm chuyện 'giải mã' những điều bí ẩn về chú rùa này.

Cuộc ‘giải mã’ các chi tiết được cho là chữ Hán trên mai rùa đặc biệt trở nên ly kỳ.

“Người đầu tiên tìm đến nhà ông Tùng là cụ Lê Khắc Tùng, cố đạo Quần thể di tích lịch sử Quốc gia Thành Sơn Phòng Hàm Nghi Ðền Trầm Lâm. Sau khi nghe tin đã xuống trực tiếp kiểm tra, thuê người chụp hình để làm tài liệu nghiên cứu, cụ Tùng kết luận, “Con rùa này khác hẳn so với hàng vạn con rùa khác. Hai chân trước và cổ dài hơn, không thu mình khi người đụng vào. Leo ngược thành rất giỏi. Các hoa văn xung quanh mai rùa khác thường, có những hình chữ Hán, chữ thánh Phật. Trên mai là mặt phẳng yên ngựa không khum lưng. Màu hồng sắc mận quân tựa thể như được phủ một lớp đồng. Thái độ của nó như muốn nghe ngóng âm thanh của con người phát ra.”

Cụ Tùng chỉ giỏi chữ Nôm nên đã tìm đến cụ Trần Ðình Chư - Trưởng ban Tế tự quần thể di tích lịch sử Quốc gia Thành Sơn Phòng Hàm Nghi, Ðền Trầm Lâm - một người rất sành chữ Hán.

Trước sự chứng kiến của nhiều người ngay tại ngôi đền Trầm Lâm, hai cụ trải chiếu ra giữa nền say sưa nghiên cứu. Sau mấy chục phút tỉ mỉ nghiên cứu nhiều bức hình chụp lại, thậm chí dùng cả kính lúp trợ giúp cụ Chư khẳng định, trên mai rùa có 4 chữ theo thứ tự từ đầu đến đuôi rùa là: “Ứng - Mạc - Tắc ố Hình.”

Phía dưới bụng của ‘rùa thần’. (Hình: VNN)

Cụ Chư giải thích:

Ứng là ứng hiện,

Mạc là chẳng,

Tắc là làm,

hình là hình.

Cụ khẳng định chắc như đinh đóng cột, “Ai bảo tôi đọc sai mấy chữ đó trên mai rùa tôi chịu trách nhiệm.”

Tuy nhiên, cụ cho biết, “Dịch nghĩa như thế nào của 4 chữ trên cho thông suốt thì cần phải có các chuyên gia, tôi chỉ biết đến như vậy.”

Chuyện 'giải mã rùa thần' vẫn chưa có kết luận cuối cùng, nhưng có rất nhiều lượt người kéo đến nhà ông Tùng để tận mắt chứng kiến “rùa thần,” quay phim, chụp ảnh và đồn thổi đi xa những chuyện lạ được chứng kiến.

Xôn xao chuyện dân bắt được “rùa thần”

(Dân trí) - Mấy tháng nay người dân ở huyện miền núi Hương Khê bàn tán xôn xao xung quanh chuyện một người dân trú tại xã Hương Bình bắt được con “rùa thần”.
Người may mắn sở hữu được con “rùa thần” là ông Nguyễn Hữu Tùng, trú tại xóm 1, xã Hương Bình, huyện Hương Khê.
Toàn thân “rùa thần” (ảnh: Bá Hải)
Tại nhà ông Tùng, theo quan sát của phóng viên, “rùa thần” có kích thước khoảng 10 x 15 cm, nặng khoảng 0,5 kg, chân và cổ dài, mai rùa có nhiều hoa văn trông giống chữ Hán.
Ông Tùng kể: “Chiều tối ngày 15/7/2009 âm lịch, tôi và con trai trên đường đi bệnh viện về thì bắt được con rùa này ở giữa đường làng, cách cửa đền “Phúc Ấm”, một ngôi đền được cho là rất linh thiêng thuộc xóm 1, xã Hương Long chừng 300m. Sau khi nhặt được con rùa con trai tôi mang về nhà rửa sạch thì thấy hình thể, màu sắc con rùa khác với rùa thường. Đặc biệt con rùa chỉ ăn chuối mà không ăn thức ăn khác”.
Vì tính hiếu kỳ nên mấy tháng nay đã có rất nhiều lượt người kéo đến nhà ông Tùng để xem. Tất cả sau khi được tận mắt chứng kiến con rùa đều có chung nhận định, đây là một con rùa rất khác thường. Việc người dân bàn tán càng khiến mức độ lan truyền về con “rùa thần thánh” ngày một rộng, thu hút nhiều người, kể cả các bậc cao niên đến xem.
Đầu rùa rất nhiều hoa văn (ảnh: Minh Chiến)
Mới đây nhất, vào đầu tháng 3/2010 ông Lê Khắc Tùng, cố đạo Quần thể di tích lịch sử Quốc gia Đền Trầm Lâm - Thành Sơn phòng Vua Hàm Nghi (xã Phú Gia) sau khi nghe tin đã xuống kiểm tra và nhận xét: “Con rùa này khác hẳn so với các con rùa bình thường. Hai chân trước và cổ dài hơn, không thụt đầu khi người đụng vào, leo ngược thành rất giỏi. Các hoa vân xung quanh mai rùa khác thường, có những hình chữ hán. Trên mai là mặt phẳng yên ngựa không khum. Màu hồng sắc mận quân tựa thể như được phủ mộ lớp đồng”.

Theo ông Nguyễn Hữu Tùng, thời gian qua do thông tin lan truyền nên đã có một số người tìm đến nhà hỏi mua con rùa với giá rất cao nhưng gia đình ông kiên quyết không bán mà giữ lại và chăm sóc rất cẩn thận con rùa.


Rùa thần  "hiển linh" ở Hà Tĩnh, Tin tức - Sự kiện, Rùa  thần

Con "rùa thần" này có khích thước 10x15cm, nặng khoảng 0,5 kg và đặc biệt nó có nhiều điểm rất khác biệt so với các con rùa khác.

Friday, March 12, 2010

Hạ Miên Trường-Họa Hữu Phúc Trung

Họa Hữu Phúc Trung !

Người Á Đông - cụ thể là người Việt - quan niệm trong cái họa tiềm ẩn cái phúc và trong cái phúc lại hàm chứa cái họa . Họa và phúc cứ quyện vào nhau thành một thể thống nhất gọi là Thái cực . Thái cực được cha ông ta biểu thị bằng một hình tròn vừa xanh vừa đỏ xoắn vào nhau như hình con ốc . Chính cái hình con ốc xoáy này được sơn trên da cá sấu (long mã) làm đồ trang trí trong nhà như một biểu tượng thờ Ông Trời . Trong những bài viết trước đây tôi vẫn nêu lên với qúy độc gỉa rằng dân tộc Việt rất coi trọng Đạo , cho nên bất cứ nơi nào từ lời ăn tiếng nói , đi lại , nơi ở , trang trí ,v.v... đều được cha ông ta lồng Đạo vào bên trong, như một cách nhắc nhở cháu con phải biết sống Đạo , tức là sống khuôn phép theo triết lý sống đạo của tiền nhân . Hình ảnh Đạo được vẽ trang trí - như một thói quen - trên mai rùa , trên xương thú vật , trên da cá sấu , trên đất nung như đồ gốm , trên trống đồng, rìu búa , dao , trên tranh vẽ Đông Hồ .v.v... và nhờ thế mà ngày nay chúng ta có đủ tang chứng vật chứng xác minh được tác quyền nền văn hóa tinh thần rực rỡ và minh định được dòng lịch sử nhiều uần khúc. Theo truyền thuyết xưa của Trung Quốc, trên sông Hoàng Hà đã từng xuất hiện con long mã ( cá sấu ) trên mình có vẽ bản đồ (Đường vẽ ngoằn ngoèo hình xoắn dạng con ốc xoáy ) gọi là Hà đồ và trên sông Lạc Thủy xuất hiện con thần qui, trên lưng có thư (sách) gọi là Lạc thư. Do đó mà người ta đặt ra bát quái và cửu chương .

Dân gian có chuyện Tái Ông mất ngựa kể lòng vòng về chuyện may rủi được mất rất hay , chẳng biết đâu là họa hay phúc . Người kia bắt được con ngựa , láng giềng đến chúc mừng nhưng ông không coi đó là điềm mừng , vì chính con ngựa đó làm con trai ông gãy chân . Láng giềng lại đến chia buồn thì ông cho là điềm may, vì sau đó chiến tranh xảy đến , con không không phải tham chiến và giữ được mạng . Trong cái phúc có cái hoạ gọi là hoạ hữu phúc trung .

Ngày nay trong hình sự người ta thường phục dựng lại diễn biến các vụ án mạng để tìm hiểu rõ các tình tiết vụ án khi vụ án đó thiếu mặt các nhân chứng , nhất là khi các vụ án đó đã xảy ra rất lâu trong qúa khứ . Cũng bằng phương pháp " phục dựng " này tôi đã chứng minh trong bài " Rợ Hán là ai ? " rằng những tên gọi trong truyền thuyết Tàu như Bàn Cổ , Phục Hy, Nữ Oa , Hữu Sào , Toại Nhân , Thần Nông , Đế Nghiêu , Đế Thuấn , .v.v... kể cả Thần mặt Trời , Đạo học , Dịch học, Hà Đồ , Lạc Thư ,v.v.... là tiền thân hoặc thần nhân (nam thần hay nữ thần) và cũng chính là sản phẩm văn minh tinh thần của người Việt , không chỉ qua tên gọi của họ có nguồn gốc tiếng Việt không thôi , mà còn căn cứ theo trình tự thời gian lịch sử tôi đã dẫn chứng và qua những bằng chứng tìm thấy được , đã chứng tỏ rằng người Hán đã ăn cướp và chiếm đoạt những tấm da cá sấu và những tấm mai rùa của tổ tiên ta , mà chúng man khai là thần quy cũng như long mã còn sống hiện ra trao tận tay cho chúng , trên đó có vẽ Hà Đồ và Lạc Thư, rồi đưa về xào nấu theo suy nghĩ của họ mà soạn ra Dịch học . Cũng chính vì do ăn cướp nên chúng không tìm ra được đầu mối căn nguyên cấu tạo của bộ môn học trác tuyệt này . Đây là cách Hán tự miệng khai ra là mình đã ăn cướp . Sau khi viết được hai bài đánh nhau với giặc Hán là "Rợ Hán là ai ?" và bài "Ai Đồng Hóa Ai ?" thì tôi tình cờ đọc được trên NET công trình nghiên cứu công phu rất qúy báu hoàn toàn thuyết phục của học gỉa Trần Quang Bình , xin giới thiệu đến bạn đọc : http://vietsciences.free.fr/vietnam/vanhoa/kinhdich/1.htm

Đã từ lâu tôi cứ thắc mắc là tại sao người Nhật lại tin rằng họ là con cháu Thần Mặt Trời . Giữa Con Người và Mặt Trời có liên quan gì đến nhau ? Người ta có thể thờ vật tổ "totem" của họ là con thú như Đại bàng , Thần Ưng , Sói , Cọp , Rồng , Tiên , Sư Tử , ... thì có thể hiểu được vì chúng là sinh vật có liên can ít nhiều đến con người , nhưng Mặt Trời là vật vô tri vô giác làm sao lại có thể có con cháu là con người được ! Đến khi nghĩ lại hình ảnh Mặt Trời trên trống đồng nằm chính giữa làm chủ thể thì tôi mới hiểu ra được ý nghĩa của câu nói người Nhật là con cháu ông Mặt Trời . Người Korea thì biểu diễn bằng Thái cực đồ theo cách của người Hán . Người Việt biểu diễn Thái cực đồ bằng vòng xoắn giống như hai con nòng nọc quấn vào nhau . Đây là hình xoắn Phục Hy trong truyền thuyết tìm thấy trên da long mã . Không có gì để gọi là huyền bí cả . Rõ ràng người Việt đã đồng hóa các sắc dân Hán , Hàn , Nhật , ... rồi vậy .

Nếu có dịp lướt mắt xem qua lịch sử Hán ta sẽ thấy nước Hán mới thực sự thành hình từ thời Tần Thủy Hoàng nhờ công góp sức của rợ Hung Nô từ miền bắc cách đây khoảng 2.300 năm . Lúc này nước Tàu mới chiếm được khoảnh đất lớn quanh khu vực Bắc Kinh . Trước đó vài trăm năm là thời Đông Châu liệt quốc vẫn còn nhiều quốc gia đánh nhau chí tử . Công dựng nước và giữ nước Văn Lang của các triều đại Hùng Vương trước đó hơn 2.000 năm trời đâu phải nhỏ . Nước Văn Lang thực sự là một nước hùng mạnh, đã từng thắng nhà Thương vào thời thánh Gióng khoảng năm 1.700 BC và sau này nhiều lần đẩy lui các cuộc xâm lăng của tướng Tần như Đồ Thư , Nhâm Ngao , Triệu Đà và ngay cả Tần Thủy Hoàng , sau đó đã chặt được đầu Đồ Thư .

Văn hoá nước Văn Lang theo đạo thờ Trời nên coi việc xâm lăng và giết chóc là tội ác sẽ bị trời qủa báo, nên không có chuyện xâm lấn các nước lân bang như dân tộc Hán . Đó là điều may cho Tàu . Nước Văn Lang tương đối thuần chủng, vì không sát nhập bất cứ quốc gia nào khác vào lãnh thổ của mình , cho nên tuy có dân số đông ban đầu, vẫn trở thành một nước nhỏ so với nước Tàu là một nước có hơn 1.000 sắc tộc . Cái rủi cho Tàu là tất cả các sắc dân trong nước Tàu đâu có sẵn sàng thần phục , vì thế nước Tàu có thể nổ tung bất cứ khi nào . Bên cạnh đó hậu duệ nước Văn Lang là Việt Nam luôn tồn tại song song với nước Tàu như một cái gai rất nhọn, nhưng cũng rất cứng kềm chân Tàu suốt chặng đường dài mấy ngàn năm . Tàu rất muốn xoá sổ nước Việt để xoá đi cái tội ăn cướp , sát nhân và nhờ đó có thể danh chánh ngôn thuận công bố với thế giới về nền văn minh nước Tàu rạng rỡ , vì Tàu vốn mặc cảm là chưa từng có văn minh bao giờ , muốn xoá đi cái nét mọi rợ trong tư tưởng , xoá đi tánh hay bắt chước một cách thiếu suy nghĩ rất xuẩn độn . Xin coi bài @ Ai đồng hoá ai @ .

Tàu giải thích thế nào với thế giới về việc dùng âm lịch giống Việt Nam và ăn Tết Nguyên Đán như người Việt ? Tàu có biết tại sao người Việt không dùng dương lịch chứ ? Nếu đã biết nguyên do thì tại sao lại nhắm mắt bắt chước không chút sáng tạo nào ?

Con dân đất Việt xưa nay vẫn coi khinh nước Tàu như mọi rợ . Tàu biết chuyện đó nhưng Tàu không làm được gì cả . Mỗi lần muốn đánh VN , Tàu phải tìm hiểu thật kỹ xem dân nước Việt đã thực sự hết ba đầu sáu tay hay chưa để tránh được tổn thất , nhưng hễ cắt đầu này thì lại mọc đầu khác , chặt được tay này thì dân Việt mọc tay kia , chặt mãi không bao giờ hết . Đó là cái rủi cho Tàu . Khi bắt được tướng Trần Bình Trọng , Tàu năn nỉ Trần Bình Trọng quy phục mình , nhưng bị tướng Trần Bình Trọng chửi một câu rất nặng để đời :" dù mọi rợ như qủy ở nước Nam vẫn còn văn minh hơn ông vua đất Bắc ". Câu nói này đau qúa khiến Tàu đành phải chém Ngài . Nhưng Ngài có ba đầu sáu tay, càng chém lại càng mọc ra thêm , chém không bao giờ hết . Và Tàu cứ phải ngậm bồ hòn làm ngọt .

Gần đây Tàu đem quân chiếm hòn đảo này , cướp mảng đất khác của nước Việt làm ra vẻ ta ngon lành lắm . Tàu có giỏi cứ đem quân đánh VN đi ! Tại sao suốt mấy chục năm nay Tàu không dám đánh chiếm nước Việt ? Có lần đã đưa quân sang sao lại kéo về ? Tại sao cứ ngồi ở nhà mà sủa mãi vậy ? Nếu Tàu có thực lực thì có cần phải nằm trong bụi rậm mà sủa mãi mấy chục năm ròng rã vậy hay không ?

Cái may cho Tàu là nước Việt không lớn cho lắm so với Tàu , nhưng cái xui cho Tàu là chẳng biết cháu con Trần Bình Trọng toan tính gì . Nước Việt chẳng đem quân đánh Tàu đâu , nhưng dân nước Việt không để chúng yên thân . Ngày nào nước Việt còn , ngày đó Tàu ăn ngủ không yên . Trước sau gì Tàu cũng phải nổ tung tan xác như trái pháo đại , chính người dân nước Tàu sẽ phá nát nước Tàu , nhưng chất xúc tác làm cho nước Tàu mau tan xác chính là con dân nước Việt . Đập nát đầu con rắn ở nước Tàu thì sẽ cứu được nước Việt ! Không có nước Tàu thời không có CS VN . Làm gì có chuyện hòa hợp hòa giải cải lương hay đa nguyên đa đảng . Dẹp nạn CS qua một bên . Người dân Việt phải làm gì ư ? Dễ lắm . Phá tan nước Tàu sớm hơn dự tính ! Cứ đọc sử Tàu và chỉ cho dân Tàu đọc sử Việt !


Hạ Miên Trường * 03.Mar .2010

Hạ Miên Trường-Con Rồng Cháu Tiên

Con Rồng Cháu Tiên

Mỗi dân tộc trên thế giới đều tự chọn cho dân tộc mình một con thú hay một vật thể nào đó làm vật tổ ( totem ) là biểu tượng tôn thờ. Thí dụ : người Mỹ chọn con ó, người Pháp chọn gà trống , người Đức chọn con đại bàng , người Nga chọn gấu trắng , người Nhật chọn mặt trời , người Tàu chọn con cá , con cú , con cọp trắng , con rồng và mới đây đang muốn chọn con chó sói làm vật tổ , một và chỉ một mà thôi . Ta gọi đó là vật tổ đơn . Chỉ riêng người Việt là sang trọng nhất thế giới vì có cùng lúc tới hai vật tổ lận , đó là Rồng và Tiên , tạm gọi là vật tổ kép . Thế mới oai chứ . Thói quen này đã có từ thời thượng cổ . Bài viết này có thể không làm hài lòng một số độc gỉa nào đó, vì nó không được giống như mong đợi . Xin phép cho tác gỉa được xin lỗi vậy .

Xuất phát điểm ở đây xin được xoay quanh cái tên gọi "vật tổ" là gì để tránh bị lạc đề . Vật tổ có thể là một con thú , cũng có thể là một vật thể , nhưng nói chung đó là biểu tượng mà dân tộc nào đó sùng bái , tôn thờ hay mang ơn . Người Nga chẳng hạn sống ở bắc cực là nơi có nhiều gấu trắng là loài thú dữ đem lại kinh hoàng cho họ . Người Nga dễ trở thành mồi ngon cho gấu trắng khi chúng không săn bắt được hải mã , hải cẩu , sư tử biển , cá ,.... Ở những nơi ấm áp hơn như ở Phi châu thì loài người sợ hãi sư tử , cọp , beo , gấu , chó sói ,.... rình rập tánh mạng họ ngày đêm . Cho nên ta thấy có một số lớn dân tộc tôn vinh những vị tử thần này làm vật tổ . Tuy nhiên ta cũng thấy có dân tộc có vật tổ dễ thương hơn như đại bàng , ó , ... là những loài vật biết giúp con người săn bắt mồi khi đi săn . Loài thú rừng như sơn dương , thỏ rừng , nai , mễn , ... thường rất giỏi leo trèo trên các vách núi chênh vênh , thậm chí trên các ngọn cây mà các thú săn mồi khác như cọp , sư tử hay con người không thể nào trèo lên săn bắt được . Chúng lại chạy rất nhanh trên đồng vắng . Người ta nuôi chim ưng , đại bàng , ó ,... và dạy cho chúng săn mồi rất tiện lợi . Đại bàng có thể bay từ trên cao chụp gáy con dê núi tận trên cao và buông con mồi xuống vực thẳm lởm chởm đá bằng một động tác gọn nhẹ trong nháy mắt khiến con mồi trong phút chốc đã biến thành cái xác không hồn . Người ta chỉ việc phi ngựa đến lượm đem về làm thịt . Gà trống là một loại đồng hồ báo thức của dân chúng khi nhân loại chưa biết đến đồng hồ . Cá tôm là thực phẩm cho con người nên cũng được mang ơn . Tới đây ta đã biết được lý do tại sao có vật tổ rồi nhé .

Vật tổ của người Việt thuộc nhóm thứ nhì : Vật tổ của người Việt không phải là nỗi kinh hoàng mà là một sự mang ơn . Đó đây ta hay gặp câu hỏi về ý nghĩa của cặp vật tổ Rồng Tiên mang ý nghĩa gì . Để trả lời câu hỏi này thật không dễ chút nào . Người Việt có thói quen rất lạ là ưa ví von trầm bổng khiến cho người nghe cứ phải vận dụng tư tưởng mãi để hiểu coi câu nói ấy mang ý nghĩa gì và nhiều khi vẫn cứ hiểu sai như thường . Hiểu sai thì phải tìm hiểu tiếp cho đến khi tìm ra lời giải đáp đúng . Thì ra cha ông ta không hề muốn cho con cháu ăn sẵn những thức ăn được bày biện sẵn , mà bắt con cháu phải động não suy tư . Có phải vì thế mà chúng ta ngày nay được thừa hưởng một gia sản tinh thần có một không hai , tuyệt luân nhất thiên hạ hay không ? Có phải vì thế mà chúng ta có một tổ tiên thiên tài bậc nhất gầm trời này hay không ? Cho tới nay nhiều sự kiện vô cùng thông thái của tổ tiên người Việt vẫn chưa được nhân loại khám phá hết , chứ đừng nói chi là hiểu thấu hết . Chúng ta còn phải sửng sốt dài dài .

Ví von ra sao ? Hãy xét bà Nữ Oa thì thấy ! Bà là con gái của Bàn Cổ , vừa là vợ , vừa là em gái của Phục Hy . Bàn Cổ là Thái cực sanh Lưỡng Nghi là Phục Hy và Nữ Oa . Nữ Oa dùng tay nâng 5 vì sao đặt trên bầu trời có 5 màu sắc là sao Kim , Mộc , Thủy , Hỏa và Thổ . Ngũ hành , Hà Đồ , Lạc Thư phải có đồng thời với Âm và Dương cách nay 5.000 – 7.000 năm . Âm và Dương thuần túy sẽ không tạo ra được gì hết . Sau Âm Dương , ngũ hành thì đến 4 chân chống trời tức Tứ Tượng . Nói bà Nữ Oa cưới Tứ Tượng là lộng ngôn ! Sau khi có tứ tượng thì phát sanh Bát Quái . Có bát quái thì có vạn vật ! Ví von cỡ đó làm sao mà hiểu cho nổi nếu không biết Nhất Nguyên Lưỡng Cực Đạo là gì . Không biết ngũ hành là gì làm sao mà biết được đá ngũ sắc là đá nào . Cho nên người Hán giải nghĩa rất lơ mơ về những tên gọi huyền thoại trong lịch sử bịa đặt của họ . Xin coi phần cổ sử (huyền sử )của Hán !

Vậy thì chúng ta mang ơn ai hay mang ơn cái gì ? Cái khó cho ta là Rồng và Tiên đều không sờ nắn được như các vật tổ thông thường . Chúng ta không khác chi con cháu người Ai-Cập hiện đại , thấy Kim Tự Tháp sờ sờ trước mặt mà không sao giải thích cho du khách được cha ông họ đã xây Kim Tự Tháp ra sao .

Có khá nhiều cố gắng đi tìm cách lý giải hai chữ Rồng Tiên rất gượng ép rằng : thì chúng ta có Nhất Nguyên Lưỡng Cực Đạo , cho nên Rồng Tiên phải là Âm và Dương là chắc cú rồi . Tất nhiên là Rồng Tiên là Âm Dương , đâu có ai cãi làm chi, nhưng nếu chỉ nói đến Âm Dương khơi khơi thì cần chi phải nói tới "con cái" làm chi cho tốn thời giờ vô ích đúng không vậy ? Nếu chỉ đơn giản như thế thì ta chỉ cần nói làm hai cái bánh , một cái tròn , một cái vuông như truyện " Bánh dầy , bánh chưng" là thỏa mãn người nghe ngay , đâu có lý nào lại đi lòng vòng mãi cho nó thêm lôi thôi như vậy . Hơn nữa nếu đã có chuyện bánh dầy bánh chưng rồi , còn bày vẽ làm chi chuyện " Con Rồng cháu Tiên" cho nó trùng lập ?

Cách duy nhất để hiểu được các cụ là ta phải đặt mình vào vị trí các cụ , có nghĩa là như ngã lìa : Chúng ta phải là những nhà thiên văn !!! Đã từ xa xưa lắm không biết chính xác cách đây 5 hay 10 hoặc 15 ngàn năm trước , thậm chí có lúc tôi suy nghĩ là 30.000 năm trước , tổ tiên chúng ta đã là những nhà thiên văn , đã tìm hiểu đất trời để khám phá ra sự vận hành của vũ trụ mà hình thành cho con cháu một triết lý sống gọi là Đạo , đồng thời tìm ra lịch dùng trong canh tác nông nghiệp lúa nước . Con người không chỉ sống bằng cơm bánh vật chất , mà còn có nhu cầu về tâm linh nữa . Các cụ đã giải quyết cùng lúc cả mặt tâm linh lẫn vật chất trọn gói từ khuya rồi .

Chúng ta tạm bỏ qua óc duy lý và duy sử qua một bên để tưởng tượng về một xã hội chưa có vua chúa trong công xã nguyên thủy thì làm gì có vua chúa và làm gì có tên gọi . Vậy thì tên gọi ấy phải có nguồn gốc nào đó để con cháu có thể hình dung . Đó là buổi giao thời của nhân loại . Vua Thần Nông là một tên gọi cho dễ hiểu chứ chưa chắc là một con người sống thực . Vụ Tiên , Lạc Long Quân , 100 vua Hùng , ... theo thứ tự cũng nằm trong dạng thức này . Hãy tưởng tượng ta đang là một nhà thiên văn ! Ta đang khảo sát một chòm sao có mặt cách nay 7.000 năm có tên là Vũ Tiên (Hercules = Tiên ) , được coi là cổ nhất ! Chòm kế tiếp trẻ hơn cách đây 5.000 năm là Thiên Long Tinh (Draco = Con Rồng Trời ) ! Chòm kế tiếp nữa sanh sau đẻ muộn là Tiểu Hùng Tinh ( Ursa minor = gấu nhỏ ) ! Tất cả các chòm sao trên vẫn hiện hữu và tồn tại cho tới nay và ta vẫn cứ gọi chúng như xưa . Ta sẽ thấy ngay tổ tiên ta là bà Vụ Tiên (hay Vũ Tiên = Tiên làm mưa ?! ) là một bà Tiên , thế hệ sau đó là chòm Thiên Long = Rồng Trời ( Lạc Long Quân) và con cháu là chòm Tiểu Hùng Tinh ( Hùng Vương = Hùng là con gấu !) . Đọc theo thứ tự thì 100 con gấu là con của Rồng và cháu của Tiên . Đem thiên văn mà ghép vào sử thì nó so le . Chắc chắn ai trong chúng ta cũng không khỏi ngạc nhiên là tại sao ta chỉ tính từ các triều đại vua Hùng dựng nước năm 2879 BC vào sử Việt mà không đoái hoài chi tới Vụ Tiên + Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân + Âu Cơ . Những vị này đều là thần nhân như Phục Hy , Nữ Oa, Tứ Tượng vậy thôi . Đó là huyền sử chứ không phải chính sử . Họ chưa từng sanh ra trên đời .

Giáo lý của Đạo ta nằm ẩn tàng trong truyền thuyết . Mỗi truyền thuyết còn chuyển tải tư tưởng . Truyền thuyết là thông điệp . Thông điệp ấy là chữ Hiếu ! Cháu con mang ơn trực tiếp từ Ông bà, cha mẹ , chứ không mang ơn thần thánh hay tôm cá , chim cò gì cả . Người Việt không siêu hình , không tôn thờ thần tượng , ma quái , qủy thần một cách viển vông , siêu thực . Cao cả thay !

Hạ Miên Trường * 09.Mar.2010

Monday, March 8, 2010

GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc-Đôi lời với Nhạc Sĩ Tô Hải

Đôi lời với Nhạc Sĩ Hải

sau khi đọc bài “Vài lời tâm huyết…”

*GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

Thưa Nhạc sĩ Tô Hải,

Trong đối thoại Việt ngữ, quan trọng trước nhất là sự xưng hô. Tuổi của nhạc sĩ chỉ bằng tuổi người chị nhỏ nhất của tôi nên tôi xin gọi bằng anh (tôi là con út của bố mẹ tôi).

Tôi đã đọc bài “Vài lời tâm huyết gửi các cháu Dziệt kiều” của anh, tuy nhiên vì quá bận, lá thư này chỉ trả lời một số mà không nhằm trả lời hết các mục anh đã nêu ra trong bài vừa nói trên.

Trước hết tôi phải nói một sự thực trong lòng tôi, viết và trình làng cuốn:”Hồi ký của một thằng hèn” anh khiêm nhượng nói thế chứ sĩ phu Bắc Hà và khắp vùng đất nước còn nhiều “thằng” hèn hơn anh rất nhiều. Khi vẫn còn ở trong gọng kềm của Việt Gian Cộng sản (vgcs, tôi xin mượn tạm danh từ “trong gọng kềm” của ông cựu Đại Sứ Bùi Diễm (hoàn toàn không hèn!), cả đời ăn lộc hậu hĩ từ miền Nam và người Quốc gia, hiện đang là Đảng trưởng một đảng lớn chống Cộng ở hải ngoại, ông Bùi Diễm (con cụ Bùi Kỷ) đã viết cuốn sách để đời“Trong gọng kềm lịch sử” để ca tụng tên tội đồ dân tộc bán nước cho Tàu: Hồ chí Minh, một thằng rất hèn). Phải, khi còn trong gọng kềm kinh khiếp như chưa bao giờ nhân loại nhìn thấy cách tra tấn, cách đày đọa dã man của vgcs đối với các tù nhân chính trị của họ, thế mà anh (Tô Hải) dám nói lên một phần sự thật quí báu, đúng là một cái tát nổ đom đóm mắt vào mặt giặc Hồ và Mạnh, Triết, Dũng…thì anh Tô Hải đâu có phải là một thằng hèn như anh nhún nhường tự nhận. Cái hèn của anh, nhiều người ở hải ngoại này và cả trong nước mơ không thấy. Tôi thực sự kính phục anh và khinh những bọn xưa nay chỉ khua môi múa mỏ nhưng so với anh thì xách dép anh chưa đáng. Đây là lòng thành thực, không phải môi mép!

Những Tiến sĩ Hà sĩ Phu, Nguyễn thanh Giang, Nhà văn Dương thu Hương, Nguyễn huy Thiệp, Bùi ngọc Tấn, Đỗ hoàng Diệu, Lữ Phương, Trần mạnh Hảo v.v…ở đâu mà lặn kỹ thế! Những người này không hèn tí nào, cá nhân tôi nghĩ, nhưng chắc đang đi kiếm đôi dép của anh Tô Hải.

“Đỉnh cao chói lọi”- Au Zenith - giờ này cũng thành “thiên đường mù tịt” giữa ban ngày vì anh hùng, vĩ nhân thích uống rượu vang, ghét rượu quốc lủi nay bán nước cho Tàu phù, một cái nhục thiên thu, con cháu khinh vạn đại, đích thị là một thằng hèn, quá hèn và có trọng tội với đất nước. Và “Dẫn nhau đi dưới tấm biển chỉ đường” chỉ là tấm biển để đưa nhau xuống hố thôi sao?

Bài này không nhằm “ca” anh nhưng nhằm chỉnh sửa những điều anh nói sai trong bài”Vài lời tâm huyết gửi các cháu Dziệt kiều”.

Năm 1945, khi ông Hồ chí Minh kêu gọi toàn dân kháng chiến, lúc đó có lẽ anh đi bộ đội thì tôi mới là một thiếu niên, vì thích cách mạng của ông Hồ quá, mê Độc lập, Tự do, Hạnh phúc hơn mê bất cứ cái gì, xung phong vào bộ đội chính qui nhưng họ không nhận, bảo em còn bé nên sang Văn công mà xung phong. Tôi bèn đi Văn Công, mẹ giấu bố tôi cho tiền để đóng tiền cơm rồi từ đó cùng với đoàn giãi dầu mưa nắng đói lạnh đi khắp mọi miền đất nước, dùng lời ca tiếng hát, tiếng đàn để kích thích lòng dân xung phong gia nhập bộ đội, xung phong đánh Pháp, xung phong thi hành mọi mệnh lệnh từ cấp trên đưa xuống với ý hướng là cùng chung tay diệt Pháp mang lại Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, áo ấm, cơm no cho toàn dân trong đó có mình và gia đình mình. Ôi, cái lý tưởng ấy đẹp biết chừng nào!

Bao chiến sĩ anh hùng, lạnh lùng vung gươm ra sa trường. Quân xung phong! Nước Nam đang chờ mong tay ngươi hồn sông núi khí thiêng ghi muôn đời…

Ngựa phi nơi xa tai nghe súng vang bên trời điệu kèn rộn ràng.

Là trang nam nhi, quyết chiến sa trường, sống thác coi thường, mong xác trong da ngựa bọc thân thế trai…

…Toàn dân thét vang kinh kỳ: Độc lập muôn năm dân cùng chung sức kiến thiết. Trước bóng cao quốc kỳ, đứng lên giơ tay, tiến lên đường đi.

Thề phục quốc, tiến lên Việt Nam. Lập quyền dân tiến lên Việt Nam. Đời Hạnh phúc, đắp xây tự do. Việt Nam tranh đấu chống quân ngoại xâm!

Chúng ta chưa thể quên được những bài hát oai hùng này, những hình ảnh oai hùng này với tiếng trống ếch khua vang trên đường phố, tôi vẫn còn như ngộp thở trong cái không thời gian thần thánh quá đáng sống ấy! Tôi chắc anh và nhiều người khác cũng thế!

Sau hơn năm rưỡi cực khổ và đói lạnh, sau đó tôi té ngửa vì biết ông Hồ và đảng Việt Minh của ông chỉ là đệ tam CS trá hình (do bố tôi quát vào tai tôi với sự giận dữ cực kỳ: Mày muốn mất cả cuộc đời thì cứ đi theo lão Hồ. Y là một cán bộ cs cực nham hiểm và thâm độc. Y sẽ giết nhiều đồng bào và có thể cả bán nước!)

Do vậy, nhờ có bố tôi chỉ bảo, tháng 9 năm 1954 tôi đã vui vẻ theo hơn 1 triệu người di cư vào Nam, làm lại cuộc đời (lúc đó tôi mới có tiểu học Pháp) và đã trở thành một Sĩ quan QLVNCH (1962, khóa 13 Thủ đức), Giáo Sư dạy Triết học và Anh ngữ từ Tú Tài 2 trở xuống (1965). Năm 1971, tôi đắc cử Dân Biểu Quốc Hội vào Hạ nghị viện VNCH. Ngày 30-4-75 qua Mỹ làm việc cho đến nay.

1-Anh Hải, anh gọi là Dziệt kiều nghe không ổn. Những đồng bào trốn tránh chế độ gian ác dã man của vgcs đi ra nước ngoài sinh sống không phải là Dziệt kiều đâu anh! Là một Nhạc sĩ cận kề bên bác vĩ đại kính yêu và các gia nô của bác như Tố Hữu, Cù huy Cận, Xuân Diệu, Chế lan Viên, Hoài Thanh… nhiều năm mà sao anh còn tối quá thế. Kiều để chỉ những người nước ngoài qua một nước khác làm ăn buôn bán, thí dụ Nhật kiều đang ở Sàigòn, Pháp kiều đang ở Đà nẵng. Những người Việt Nam hiện nay ở Mỹ, ở Pháp, ở Canada v.v…gần 100% là dân tị nạn chính trị tức tị nạn cs, sau khi đã đánh cá cả cuộc đời mình với cái chết. Nguyễn Tuân bảo:”Cái cột đèn đi được nó cũng đi!” anh không nhớ sao? Đó là một cái tát nẩy lửa vào mặt “bác” và đám gia nô việt gian. Con tôi nhiều đứa đã 4 chục, 5 chục, có đứa gần 6 chục tuổi, chúng sẽ nghĩ đầu óc bác Tô Hải chắc không bình thường nên mới gọi chúng là Dziệt kiều.

Vgcs gọi Việt kiều vì họ muốn xóa cái căn cước tị nạn của chúng tôi vô cùng nhục nhã cho họ, nhưng không ai đồng ý điều đó. Những ngu phu ngu phụ thiếu hiểu biết thường dùng danh từ đó thì kể làm chi!

2-Xin anh Tô Hải chớ dùng cái kiểu Việt ngữ “tân biên” của Trần Dzân Tiên dạy cho trẻ. Y muốn cái gì y sáng chế ra là phải khác với người Quốc gia nhưng cứu hộ, đại trà, bức xúc, chất lượng, ùn tắc, sự cố… là bắt chuớc Tàu, sai bét hết. Từ Việt phải viết chữ Việt như thế chứ không viết như anh viết: Dziệt. Trần Dzân Tiên đã bán rẻ danh dự; nay anh cũng muốn theo chân y sao? Hồi năm 1956, tên vgcs bán nước giết bố mẹ, Tổng bí thư Trường Chinh Đặng xuân Khu (mà nay con gái y ra điên vì y giết quá nhiều người, chị này xây những ngôi nhà ma quái ở Đàlạt). Trường Chinh theo lệnh Hồ và lấy quyền Tổng bí thư đảng CSVN ra lệnh cho toàn dân bỏ chữ quốc ngữ học chữ Tàu, bỏ thuốc tây uống thuốc Tàu. Rõ ràng là đỉnh cao trí tệ loài chồn! Sau này, Hồ còn ra lệnh cho tay sai lấy tấm bia kỷ niệm cố Alexandre de Rhodes, ân nhân của người Việt, ông tổ chữ Quốc ngữ (dù rằng còn có thêm mấy cố Tây và I-pha-nho khác cùng chung sức chứ không phải chỉ có mình ông, nhưng Alexandre de Rhodes có công nhiều nhất). Bọn tay sai của Hồ dùng tấm bia làm hòn đá bắc cầu ao để vo gạo, rửa rau. Đúng là những quân ăn cháo đá bát! Khá không nổi!

3-Anh có vẻ thích thú khi nhắc lại những lời thằng vgcs bán nước Phạm văn Đồng tuyên bố ở Paris năm 1978 về người Việt tị nạn :” đĩ điếm, lưu manh, ma cô, ăn bơ thừa sữa cặn…”Xin có ý kiến thế này:

a- Phạm văn Đồng là một thằng Thủ tướng ký Công hàm bán nước cho Tàu (theo lệnh Hồ) sao anh không moi ra một tí cho nó bớt cái hèn đóng thâm căn cố đế trong cái đầu óc bã đậu của anh mà lại chỉ nhắc suông những lời y chửi đổng người tị nạn trong đó có em rể, em gái anh, những người đã có công với chính anh là trưởng nam và gia đình khi xây mộ cho thân phụ anh. Ông tướng này và vợ ông ta tức em gái anh cũng bị thằng vgcs Phạm văn Đồng gọi là ma cô đĩ điếm đấy! Nhân tiện, xin nói rằng tôi không tin anh đập mả bố anh đâu mà chỉ vì ghét thằng tướng VNCH là em rể nên đập cái bia có tên ông ta lập mộ thôi. Chứ nếu thực sự anh đập mả bố anh thì tôi khinh anh hơn con chó ghẻ!

b- Những bọn ma cô, đĩ điếm, lưu manh mà Phạm văn Đồng nói, nay có thiếu gì ở Hải Ngoại này. Tên Nguyễn Kao Kẩu, thằng Nhạc sĩ già mất nết họ Phạm, thằng MC Ngã ba ông Tạ, thằng BS Phát Chẩn, vợ là mụ BS Quỳnh Khùng, thằng Đỗ văng Tròn, thằng Chủ nhiệm Thì báo Nguyễn uy Nghi ở San Jose, thằng chủ báo Đỗ ngọc Én, thằng Hủi Liêm, mấy thằng Người Việt Daily, Weekly…nhiều, nhiều lắm, ở Pháp cũng dăm chục; anh có muốn đến coi cái mặt của chúng dày đến mức nào thì cứ chờ ở cổng lăng thối Ba đình. Những con, những thằng nào đi bằng đầu gối ấy là chúng đó; 850 đến 1000 chả biết có không nhưng dăm ba chục thì chắc có. Nhất là bọn xướng ca vô loài kiêm ăn cháo đá bát ở hải ngoại! Tất thảy chúng, dù có học vị Tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư …Chúng chính là bọn ma cô đĩ điếm lưu manh bán nước vì chúng biết chắc vgcs bán nước cho Tàu khởi từ Hoàng Sa, Trường Sa, Nam Quan, Bản Giốc và Tây Nguyên nhưng chúng vẫn tự nguyện làm gia nô vì miếng đỉnh chung, vì chút tiếng tăm. Phạm văn Đồng tiên đoán cũng khá! Có thằng LS ở Houston chuyên đánh bóng mình được vgcs cho 800 ngàn nay mỗi tháng lãnh lương 5 ngàn đô thì sao? Anh đã đi bằng đầu gối ở cổng lăng Ba đình chưa, anh Tô Hải? Nếu chưa thì cũng chưa hèn lắm, khá hơn Tố Hữu, Cù huy Cận, Xuân Diệu, Huy Thông, Lữ Phương đấy! Ráng lên! Bài hát ca tụng Tàu và Mao năm xưa theo điệu quốc tế sol đố mì còn nhớ không? Thỉnh thoảng nên hát cho các cháu “Dziệt kiều” nghe chơi cho vui, nhất là những bài ca tụng tình hữu nghị Trung-Việt, núi liền núi, sông liền sông, cùng nghe một tiếng gà gáy, cùng thờ một lãnh tụ! Có thể cùng ở một nhà! Cái ngày ấy không còn xa đâu với đường phố tên Tàu đầy khắp!

Anh lại viết:

Về đến Việt Nam, hầu như các cháu tôi đều phát biểu giống ông Nguyễn Cao Kì: “Đi từ Nam ra Bắc, từ Bắc vô Nam, cháu có thấy cái gì là cộng sản đâu?” Vậy mà mấy ông chống Cộng ở bển cứ hô loạn lên! Cứ như đánh nhau với ma ấy!

Thưa anh Tô Hải tôi xin trả lời thế này:

Về đến VN đi suốt từ Nam chí Bắc không thấy gì cả vì đám trẻ này và thằng Nguyễn Kao Kẫu không đi vào nông thôn, không đi vào vườn hoa Mai xuân Thưởng, không đi vào các sân góp (golf) cán bộ vgcs chiếm đất của nông dân làm sân golf bán cho ngoại quốc thu lời trăm tỉ, nghìn tỉ. Những điều này cho thấy một xã hội mà những kẻ cầm quyền dùng súng và nhà tù cướp đoạt của cải của nhân dân, một xã hội bất công hơn thời thực dân Pháp 100 lần. Nguyễn Cao Kẩu và các thanh niên này cũng không vào nhà tù nơi các người trẻ như LS Lê công Định, LS Lê thị công Nhân, LS Nguyễn văn Đài, LM Nguyễn văn Lý (cỡ tuổi của họ), cô Phạm thanh Nghiên, nhà văn Trần khải Thanh Thủy, Kỹ sư Nguyễn tiến Trung, Trần huỳnh Duy Thức, anh Điếu Cày và hàng ngàn tù nhân chính trị khác đang bị nhốt, bị đày đọa, có khi bị giết chỉ vì nói lên lời công đạo, đòi Dân chủ Tự do và Nhân quyền cho cả nước, trong đó có Cao Kẩu đui mù và chính những thanh niên đó.. Cao Kẫu và đám thanh niên này không đến Thái Hà, nơi vgcs cướp đất giáo xứ và Toà Khâm sứ, từ 65,000m2 nay chỉ còn lại 2,000, không đến làng Mai Bát Nhã để coi các tăng ni bị tước đoạt đời sống chỉ vì nghe theo tên điếm quốc tế thiền tiếp hiện Thích Nhất Vẹm, không đến Loan Lý coi vgcs cướp trường của giáo xứ và mới đây, giáo xứ Đồng Chiêm, chúng đưa 1,000 du đãng xã hội đen và công an đầu gấu nửa đêm đặt mìn nổ tung cây thánh giá trên núi Thờ, đánh đập trí mạng nhiều giáo dân Đồng Chiêm phản đối chúng làm việc càn rỡ… Nguyễn cao Kẩu và đám thanh niên này chưa đi đến những đống rác trên đó đám trẻ bụi đời ăn, sống, ngủ và bươi rác để sống. Đám thanh niên này và Cao Kẩu cũng không có ý thức khi thấy đĩ điếm quá nhiều, tại sao đất nước lại “mạt rệp” đến thế mà chỉ biết hưởng thụ thân xác phụ nữ, những kẻ cùng đường phải bán trôn nuôi miệng như câu Ca dao ở Cần thơ trẻ em ra rả cả ngày:

Chiều chiều ghé bến Ninh Kiều

Dưới chân tượng bác đĩ nhiều hơn dân!

Nguyễn Cao Kẩu và đám thanh niên này cũng chưa đến những buổi tập họp hàng trăm cô gái Việt trần truồng cho bọn già lão, tàn phế đàn ông Đài loan, Mã lai, Trung quốc, Hàn quốc lựa vợ. Có thời nào phụ nữ Việt khốn nạn như thế không? Cao Kẩu cũng chưa sang Cam bốt, nơi có hàng trăm động điếm, trẻ Việt rất nhiều vì bị bán sang đó, có đứa trẻ mới 6, hay 7 tuổi, còn mười mấy thì đa phần!

Còn hàng ngàn nơi khác kể không xiết ở đây mà Kao Kẫu mù và đám thanh niên lòa không đi thăm, cũng không biết, nhưng phát ngôn bậy và anh Tô Hải tin vào. Thật lạ cho cái đầu ngu và hèn của anh, thưa anh Tô Hải!

Hơn nữa, thằng hèn Nguyễn cao Kẩu (thằng làm nhục cả ngành Không quân miền Nam và người Việt vì chưa có tên nào hèn và đần như y trong suốt chiều dài lịch sử VN) và đám thanh niên kia đã bị những chai rượu quý, những đồng đôla, nhất là những cái váy đàn bà che mắt, che mất trí khôn không còn nhìn thấy gì nữa nên mới phát ngôn:

Người ta bảo ở Việt Nam mất tự do nhưng chúng cháu lại cho rằng ở Việt Nam này... tự do nhất thế giới! Chỉ cần có đô la, rượu quý uống thả ga, đàn bà vơ cả đống!"

Không khảo mà xưng, rõ ràng từ miệng đám thanh niên này không chối cãi vào đâu được! Nước nhà đã mất về tay giặc một phần, Hoàng Sa, Trường Sa, Nam Quan, Bản Giốc, Tây Nguyên, Hải Phòng…Thanh niên là rường cột của nước nhà, thế mà thanh niên phát ngôn như thế! Có lẽ đi đâu ai hỏi anh người gì thì nhục không dám trả lời là người Viêt Nam đấy anh Tô Hải! Anh đã hơn 80 tuổi, ở tuổi ông ngoại ông nội đám trẻ này anh cũng cho thế là đúng, cũng a dua theo chúng! Thực là nhục cho giới sĩ phu Bắc Hà có một người như anh!

Tôi nhớ khi còn học tiểu học (dưới thời Pháp thuộc), gương anh hùng Trần bình Trọng đã làm cho đám trẻ nhỏ chúng tôi phấn khởi: Khi Trần bình Trọng bị giặc Tàu bắt, Thoát Hoan hỏi muốn làm vương đất Bắc không, ý muốn chiêu dụ nhưng tướng Trần bình Trọng quát lên:“Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vưong đất Bắc!” Thoát Hoan đem ra chém!

Trần quốc Toản mới 15, 16 tuổi chưa được dự việc quân, đứng nghe phía ngoài nhà hội ở Bình than, lóng tai nghe vua Trần Nhân tông cùng các tướng họp bàn kế phá giặc Nguyên Mông ở trong, Trần quốc Toản tức giận với quân Tàu xâm lăng, trong tay đang cầm quả cam bóp nát lúc nào không hay rồi ông về nhà tụ tập bạn bè lập một đội quân đi theo đoàn quân của các tướng, ông đánh đâu được đó dưới lá cờ đề sáu chữ: Phá cường địch, báo hoàng ân”

Sao anh Hải không cho đám con cháu một vài lời chính khí mà lại hùa theo chúng phát ngôn như những phường lạc chợ trôi sông, đầu đường xó chợ vậy?

4-Anh Hải lại viết:

Ngay giữa một tiệm ăn trung tâm Hà Nội, trong một bữa tiệc liên hoan với gần 30 Dziệt Kiều trẻ về du hí đất nước (trong đó có cháu ruột tớ), sau vài chén ngà ngà say, một cháu Dziệt Kiều đã đứng lên nâng cốc hô lớn “Hãy trở về quê hương, Việt Nam thiên đường của thế giới! Việt Nam đã đổi mới! Trở về! Mau trở về! Chuyện có thật này xảy ra ngay trong nội bộ họ hàng nhà tớ, nói láo trời bắt chết ngay tối nay!

Anh Hải, anh không cần phải thề bồi làm chi! Ai cũng tin điều đó có thật, nhưng anh có nghĩ lời phát biểu của một thanh niên sau cơn say, trong túi sẵn tiền và gái ngồi kề thì có giá trị bao nhiêu? Có thể lấy câu nói của anh ta làm khuôn vàng thước ngọc đo tình trạng sống của cả nước được không? Khi anh (Hải) không nói ra, không ai biết tri thức anh tới đâu nhưng với câu này tôi thấy anh ngu tối quá, gần hết cuộc đời rồi mà chưa hấp thụ được chút văn minh văn hóa nào! Thực tội cho anh! Không lẽ anh đã lú lẫn? Hay là do tiếp cận với những tiến sĩ lớp ba trường làng của XHCN đỉnh cao chói lọi cứt chồn nên trí óc anh cù lần ra thế? Anh có biết lính cs của giặc Hồ vào miền Nam sau 30-4-1975 dùng cái bàn cầu của mỗi tư gia miền Nam nuôi cá trê, thả con nào con ấy biến mất, có tên lại dùng để vo gạo, rửa rau nữa. Trí óc anh Hải có lẽ cũng cỡ đó?

Anh tiếp tục viết:

Một số cháu Dziệt Kiều khác thì lại tỏ vẻ “cao đạo” hơn bằng những phát biểu có vẻ “không quan tâm đến vấn đề chính trị”, thậm chí “siêu chính trị” với những nhận định như sau - Về nước Việt Nam không lo làm ăn lại cứ dính vào những vấn đề tự do, dân quyền thì về làm gì? - Thế hệ bọn cháu không thích nói chuyện chính trị v.v...

Anh Tô Hải, người trong nước nhất là thanh niên càng không nói đến chính trị, càng hưởng thụ rượu quý và gái, càng phớt lờ khi Hoàng Sa, Trường Sa, Nam Quan, Bản Giốc và Tây Nguyên mất thì đảng CS và Nhà nước càng hoan hô, càng mừng. Biết bao sinh viên học sinh và người dân biểu tình phản đối Trung cộng chiếm Hoàng sa, Trường sa đã bị công an bắt ở tù. Cô Phạm thanh Nghiên chỉ biểu tình với một cái biểu ngữ ở trong nhà của cô cũng bị mấy năm tù. Anh có thấy chính phủ nào nô lệ ngoại bang như thế không? Việt cộng muốn toàn dân khoán trắng cho họ việc cai trị, trường trị để họ cỡi đầu cỡi cổ dân Việt ngàn năm, muốn bán, muốn dâng lãnh thổ, lãnh hải cho ngoại bang nào cũng được. Đó là chủ trương của đảng và Nhà nước. Anh ở với họ suốt một cuộc đời tám, chín mươi năm mà anh không hiểu chủ trương và đường lối của họ, thảo nào anh đã gia nô cho họ suốt cuộc đời. Tiếc thay cho anh!

Nhưng cũng có những đảng viên sớm giác ngộ, bỏ cái mê lầm. Bà BS Dương quỳnh Hoa, gia nhập đảng CS Pháp từ 1956, sau đó đậu BS Y khoa tại Pháp về nước theo Hồ, được làm Bộ trưởng Y tế của chính phủ Mặt trận GP miền Nam VN, những năm sau cùng bà xé thẻ đảng, ăn năn những việc làm trước kia khi đi theo giặc Hồ. Lê Duẩn cấm bà phát ngôn về việc này trong 10 năm. Lẽ ra họ thủ tiêu bà nhưng không làm được vì sợ quốc tế. DB Lý quý Chung (Hồi ký Vô đề), LS Nguyễn hữu Thọ, Trương như Tảng v.v…cũng phản tỉnh. Còn anh, giờ này anh còn nói những câu khó nghe, phản động như thế đủ biết cái đầu óc bã đậu của anh nó tệ thế nào! LS Lê thị Công Nhân chỉ ở tuổi cháu ngoại của anh nhưng cô ấy sáng suốt và kiên cường chống lại vgcs độc tài toàn trị bán nước cho Tàu chứ không ngu tối và hèn như anh!

Anh lại viết tiếp:

Tóm lại, suốt 20 năm qua được sống, được gặp và được trao đổi với các cháu Dziệt Kiều đã để lại trong tớ nhiều niềm vui và nỗi buồn cho tương lai của đất nước nếu sau này có một phép lạ nào đó dẫn đến hòa hợp dân tộc… thật sự.

Thưa anh Tô Hải,

Ở đầu bài này, tôi khen anh hết mình, khen thực, nhưng đọc đến đây tôi lại thấy anh vẫn tối, vẫn hèn. Anh đã hơn 80 tuổi mà đầu óc chỉ bằng những thanh niên ba, bốn chục, năm chục. Việt Nam đã đổi mới như lời hoan hô của anh thanh niên. Đổi mới cái gì? Đổi mới nghĩa là tuổi gái VN làm điếm đi khắp các nước Á châu từ 20, 25, 27, 30, 35 nay trở thành 10, 13, 15? Có đứa ở Cam bốt mới 5, 6 tuổi! Thật khó tin nhưng có thực. Đổi mới nghĩa là đàn ông Hàn, Đài, Mã xưa mai mối lấy gái VN, nay thì chúng đứng coi vài trăm gái Việt cởi truồng, xét nét từ cái sợi…tóc, sợi lông để chỉ lựa lấy vài cô? Đổi mới nghĩa là Tư bản Đỏ giầu có, quyền thế hơn, trẻ con nhà nghèo đi bươi rác kiếm ăn nhiều hơn, lao nô đi các nước làm mướn đông hơn? Anh nên tìm hiểu những lao nô bị lừa đi rừng Calais Pháp để “nhảy dù” vào Anh quốc trồng cần sa! Đổi mới có nghĩa những nhà tranh đấu cho Dân chủ Nhân quyền vào tù nhiều hơn và Việt gian chạy theo ngoại bang Tàu và Mỹ đông hơn? Và còn nhiều thứ đổi mới nữa bài báo này thiếu “đất” không có chỗ viết ra!

Còn cái Hội nghị Chuột kiều, theo những đồng bào tị nạn CS ở hải ngoại hiểu thì đó chỉ là một cách để thi hành Nghị quyết 36 vốn bị thất bại ê chề. Đám Việt gian tay sai Việt cộng ở hải ngoại này về cúc cung bái tổ quì lậy lăng Ba đình vì đảng phát lương từ lâu mà sao có vẻ như chúng nằm ngủ. Đảng gọi về để tái tuyên thệ, nguyện trung thành với đảng, với bác dù đảng và bác bán nước cho Tàu.

Chỉ có thế! (Bài này viết trước khi vg này về bưng bô)

Xin nhắc lại câu anh Hải viết về GS Nguyễn đăng Hưng:

Liệu có mấy đại biểu được mời như giáo sư tiến sỹ Nguyễn Đăng Hưng dám tuyên bố: “Ở cái thời điểm vừa ban hành nghị quyết 97, IDS vừa tự giải tán. Tia Sáng vừa bị đóng cửa thì việc triệu tập hội nghị Dziệt Kiều này là không hợp thời?!"

Thưa Nhạc sĩ Tô Hải,

Như nhiều tác giả đã nhận định, vgcs đã đến đường cùng chỉ chờ ngày tan rã như bức tường ô nhục Bá Linh đầu thập kỷ 90. Biến cố oai hùng đó có xẩy ra được không còn tùy vào sự nhận thức sai đúng và lòng quả cảm của người dân bị áp bức, dám vùng lên đòi lại quyền sống cho mình, không chịu sống nhục. Người dân Đông Âu trước đây đã chứng tỏ lòng can đảm này, họ đã chiến đấu quyết liệt (hãy coi Balan, Đức, Lỗ ma ni, Tiệp, Nga…) và ngày nay họ xứng đáng được hưởng Tự do Dân chủ như một phần thưởng quí báu.

Sự can đảm thường đi đôi với trình độ văn hóa người dân có, với việc ý thức được nỗi nhục nhã khi mất tự do, mất các quyền căn bản của con người. Nếu người dân vẫn cảm thấy thoải mái với cảnh chim lồng cá chậu, không thấy nhục nhã (như Nguyễn Cao Kẩu và đám thanh niên kia), thì chắc chắn nhục nữa họ cũng chịu được. Lòng can đảm chỉ còn thấy ở đầu môi!

Đó là cái tư duy khi anh viết bài “Vài lời tâm huyết gửi các cháu Dziệt kiều” và của các cháu. Rượu quý, đô la và đàn bà với Cao Kẩu, anh và các cháu này phải hơn nhiều Tự do, No ấm cho toàn dân và một Việt Nam Dân chủ, Nhân quyền!

Cũng nói thêm, dù anh đã viết sách tự nhận là hèn nhưng sau 65 năm bị lừa gạt phũ phàng, anh chỉ mới phản tỉnh một nửa, tâm trạng anh, cái mà phụ nữ đi chợ mua thức ăn gọi là ba rọi.

Chào anh.

GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

Sách mới:

Tập Truyện ngắn: “Tình Mẹ Con”

Tập Thơ “Sau Giờ Kinh Chiều”

Liên lạc: Julie.nb.tran@gmail.com

Counter