việt nam khai quốc: địa phương tự chủ trong thế kỷ VI (chương 4, phần 1)
Chùa Khai Quốc được xây dựng từ thời Lý Nam Đế ( Lý Bí) nay đổi tên thành Chùa Trấn Quốc, nằm trên bán đảo nhỏ của hồ Tây.
NHÀ LƯƠNG XUỐNG MIỀN NAM
Vào thế kỷ thứ 6, do việc kiểm soát lỏng lẻo của nhà Lương, hoài bão độc lập tự chủ của Việt Nam lại được trải nghiệm qua các động thái nhằm định hình tư thế chính trị thấm đậm màu sắc bản xứ của họ. Ngay khi Lương triều tìm cách tạo áp lực chính trị từ từ lên miền Nam thì họ đã vấp phải cuộc nổi dậy của Lý Bí vào những năm 540. Mặc dầu bị Trần Bá Tiên đánh bại nhưng phong trào độc lập do Lý Bí khởi xướng vẫn tiếp tục phát triển khi Trần Bá Tiên phải quay về phương bắc để lập triều đại nhà Trần của Trung Quốc và các vùng miền Nam lại được cai trị bởi các thế lực địa phương. Mãi đến cuối thế kỷ 6, khi nhà Tùy lên thay nhà Trần, bắc triều lại mở rộng quyền lực của họ xuống miền Nam.
Giữ ngôi được một thời gian dài (502-549), Lương Vũ Đế của Trung Quốc, nổi tiếng là một vị vua sùng đạo Phật và ưa thích văn chương, đã giao phần lớn công việc triều chính cho các quan cận thần. Vào lúc đó vấn đề chính yếu mà nhà Lương phải đối phó ở miền Nam là sự vô hiệu quả của các thứ sử vì sau khi được triều đình bổ nhiệm, các viên thứ sử này đã thông đồng với các gia đình có thế lực ở miền Nam nơi mà tư thế chính trị địa phương ngày một mạnh thêm bởi nền kinh tế phồn thịnh qua các quan hệ thương mại với các xứ ở vùng biển Nam Hải.
Năm 522, Lương triều ra lệnh đúc tiền mới vì thấy rằng ở Châu Quảng và Châu Giao, vàng và bạc vẫn được dùng làm bản vị trong mậu dịch thay vì dùng đồng tiền chính thức của triều đình đang lưu hành ở tất cả những nơi khác. Hơn 20 năm sau đó lại có lệnh đúc tiền mới khác nhưng tình trạng ấy vẫn không thay đổi và hai châu Quảng và Giao vẫn cứ tiếp tục sử dụng vàng và bạc trong mậu dịch. Điều này cũng không có gì đáng ngạc nhiên nếu xét theo sự phân cách về địa lý của miền Nam so với những nơi khác. Tính cho đúng Quảng Châu và Giao Châu đều là đất ở ” bên kia những ngọn đèo” do đó kinh tế của hai châu này, theo thiên nhiên, đúng ra là một phần thuộc thế giới biển ở Đông Nam Á.
Vừa mưu toan đồng nhất hoá nền kinh tế của toàn vùng đô hộ bằng cách ban hành những đạo luật mới về tiền tệ, Lương triều còn tìm cách kiểm soát trực tiếp hơn nữa những địa phương xa xôi ở miền Nam bằng cách tăng thêm nhân số các thứ sử trấn nhiệm. Làm như thế thì các thứ sử có thể bị kém hiệu năng so với thời xưa; nhưng Lương triều cho rằng nếu tăng con số các thứ sử lên họ có thể duy trì được việc kiểm soát các miền hẻo lánh. Vì lý do đó Lương triều tìm mọi cách để dần dần nới rộng quyền lực xuống phương Nam và những châu cũ lại bị chia nhỏ hơn nữa để lập thêm những tỉnh mới. Nhìn bề ngoài, hệ thống cai trị mới có vẻ đã làm gia tăng được sự kiểm soát của Lương triều ở các địa phương nhỏ ấy, nhưng thật ra điều này giản dị chỉ là sự chính thức thừa nhận rằng có những trung tâm quyền lực mới mọc lên tại các địa phương.
Đầu năm 507, Quế Châu được thành lập ở phía Tây Quảng Châu. Nhưng phải đợi đến năm 523 thì việc cải tổ bằng cách chia nhỏ các châu mới thức sự rõ nét ở miền Nam với việc Quảng Châu lại bị chia ra nữa để lập thêm 4 châu mới; còn quận Cửu Chân và Cửu Đức ở phiá Nam, lại được tách ra để lập châu Ái. Có ít nhất là 13 châu mới đã được thành lập ở những nơi mà trước kia là Quảng Châu và Việt Châu trong mưu toan củng cố hệ thống chính trị của Lương triều. Năm 535, châu Hoàng lại được thành lập dọc theo bờ biển hoang vu tại phía Bắc đồng bằng sông Hồng. Quá về phía Nam, châu Đức bị tách ra từ quận Cửu Đức cũ, và thêm 2 châu nữa là châu Lý và châu Minh được thành lập ở mãi xa gần vùng biên giới với Lâm Ấp.
Mục đích của Lương triều khi lập những châu mới ở những vùng mà học chưa kiểm soát được, trước là gián tiếp xác nhận chủ quyền cai trị những vùng đó, và kế đến là khuyến khích dân địa phương tuân theo luật pháp bắc triều chứ không dựa trên căn bản về diện tích và dân số nếu ta đem so sánh Giao Châu với Ái Châu hoặc Đức Châu. Còn châu Hoàng và hai châu Lý và Minh, thì không cần bàn đến vì rõ ràng các châu này không thể coi như là các đơn vị có tầm quan trọng ngang nhau.
Quyền hành ở hững châu có tính cách chiến lược nhất được giao cho những người trong hoàng tộc bắc triều. Năm 541, hai người cháu của Lương Vũ Đế được phong làm thứ sử hai châu nòng cốt là Giao và Quảng. Những châu kém quan trọng được giao cho những người ở cấp thấp hơn, kể cả những người thân thuộc hoặc vây cách của các gia đình thế lực ở địa phương. Hậu quả của chính sách này là sự xung đột, tranh chấp về quyền lợi mà trước đây thường xảy ra giữa các gia đình địa phương với triều đình thì nay trở thành một định chế với sự thừa nhận những lãnh đạo địa phương là thứ sử các châu nhỏ. Vũ đài chính trị xưa cũ khi một ông thứ sử do bắc triều đình bổ nhiệm phải đối đầu với một hay nhiều gia đình địa phương có thế lực nay biến thành sự cạnh tranh giữa các ông thứ sử lớn và nhỏ.
Một mục đích nữa của việc thành lập thêm nhiều châu nhỏ đó là làm dân chúng quên đi các mong mỏi giành độc lập cùng với việc khuyến khích họ đi tìm các địa vị và bổng lộc trong vòng trật tự tại Lương triều. Nhưng ngặt một nỗi là bắc triều không có đủ các công việc và chức tước để thoả mãn tất cả những tham vọng đang lên của các địa phương miền Nam. Đã không lấp được khoảng trống giữa triều đình và địa phương thì chớ, phương thức mới này còn làm gia tăng ý tưởng nổi loạn. Khi quen thuộc với thể chế bắc triều nhiều rồi, những lãnh đạo địa phương lại cảm thấy không có gì đáng phải sợ hãi nữa và lại còn có ý muốn thay cái đang có bằng cái khác của chính họ.
Để tránh nguy hiểm này, các khu vực quân sự đặc biệt ở miền Nam được thành lập và được giao cho các vị tướng bắc triều để thực thi luật pháp triều đình. Trước nhất là ông thứ sử của quận quan trọng nhất nằm trong địa khu nào thì kiêm luôn chức vụ quân sự ở địa khu ấy. Một thí dụ là vào năm 509, thứ sử Quảng Châu kiêm luôn quyền cai quản quân sự bốn châu thuộc miền Nam là Quảng, Quế, Việt, và Giao. Nhưng về sau, việc chỉ huy các khu quân sự này lại được đổi thành các bộ chỉ huy riêng rẽ do các tướng giỏi chỉ huy.
Những tướng chỉ huy các khu quân sự này thường là tay chân bộ hạ của các vị hoàng thân được bổ vào chức vụ thứ sử các châu quan trọng nhất. Trong các vị tướng chỉ huy đó có Trần Bá Tiên đến miền Nam cùng với Tiêu Ánh là cháu của Luơng Vũ Đế. Tiêu Ánh trở thành Thứ Sử Quảng Châu và Trần Bá Tiên thành quan Đốc Hộ cai trị vùng sông Tích và đặt bản doanh ở Quảng Tây ngày nay. Trần Bá Tiên là một tướng giỏi và đầy tham vọng. Từ những công trạng lập được ở miền Nam mà sau này Trần Bá Tiên lập ra triều nhà Trần, triều đại cuối cùng trong số các triều đại của Trung Quốc đóng đô ở Hoa Nam.
LÝ BÍ
Chân Dung Lý Bí (Lý Nam Đế)
Lý Tắc, người nắm quyền kiểm soát Giao Châu năm 505 và sau đó đánh bại các đối thủ của ông vào năm 516, đã duy trì được quan hệ chặt chẽ và hữu nghị với bắc triều. Vào thời gian đó có nhiều người thuộc các gia đình địa phương danh giá ở miền Nam được khuyến khích tiến thân bằng cách xin vào làm việc cho Lương triều ở miền Bắc. Trong những người này có Tinh Thiệu là người văn hay chữ tốt nhưng Thái Tông, viên quan lo về nhân sự Lương triều, lại không giao Tinh Thiệu chức vụ mà ông xin, viện lẽ trong gia đình Thiệu chưa có ai là danh sĩ nổi tiếng! Thay vào đó Thái Tôn cho ông giữ chân giám sát một trong những cổng ra vào Hoàng Thành. Tinh Thiệu cho rằng mình bị coi thường nên bỏ về Giao Châu cùng với một người cùng cảnh ngộ là Lý Bí vào khoảng năm 523 khi mà các châu mới đang được thành lập ở miền Nam.
Tổ tiên Lý Bí thuộc trong số những người Trung Quốc di cư tị nạn xuống miền Nam để trốn những rối ren bất ổn do loạn Vương Mãng (9-23 SCN). Đến thế kỷ thứ 6, thì họ Lý đến định cư ở bờ Bắc sông Hồng, tại Vũ Bình gần Tân Xương, dưới chân núi Tam Đảo. Đây là vùng chiến lược nằm gần vùng biên giới đất cao của đồng bằng sông Hồng. Từ nơi này họ Lý đã củng cố địa vị và trong số họ đã có người lên tới chức “Phụ Tá Quân Sự”. Cũng giống như Tinh Thiệu, lúc bắt đầu sự nghiệp, Lý Bí lên miền Bắc và được cho giữ một chức vụ ở triều đình, nhưng vẫn “không được thoả mãn ước vọng”. Thế là Lý Bí trở về Giao Châu và được bổ làm Giám Quan ở Cửu Châu để rồi sau đó ông theo các vị anh hùng của các châu khác nổi dậy đòi quyền độc lập từ tay bắc triều.
Những ước vọng của Lý Bí lúc đó được nhiều người hậu thuẫn và có nhiều ưu thế bởi tình hình chính trị rối ren ở Giao Châu. Thứ Sử Giao Châu lúc ấy là là Tiêu Tư, cháu của Lương Vũ Đế, bị dân chúng địa phương rất oán ghét vì những hành động vơ vét, bóc lột và tàn bạo của y. Năm 541, Lý Bí được Triệu Túc, một trong số những thủ lãnh ở Chu Diên, khâm phục tài đức của ông nên đem quân bản bộ về theo. Biết được chuyện này, Tiêu Tư vội vã tìm cách hối lộ Triệu Túc để có đường chạy lên Quảng Châu, nơi cháu ông là Tiêu Ánh đang làm Thứ Sử.
Nhắc lại vùng Chu Diên, thời nhà Hán, nằm ở khoảng giữa sông Đáy và sông Hồng nơi mà hai sông này phân nhánh. Tương truyền Thi Sách, chồng của Bà Trưng cũng quê ở đó. Qua bao thế kỷ cái tên Chu Diên dường như cứ dần xuôi mãi xuống vùng hạ lưu và đến thế kỷ 6, thì nó đã đến gần bờ biển, nơi mà sông Hồng gặp thủy triều lên xuống. Phần lớn đất Chu Diên là đầm lầy, không trồng trọt gì được vì hệ thống đê điều chưa được đắp xuống đến đấy. Tuy nhiên những tập tục từ thời Bà Trưng, mặc dù chỉ còn là những ký ức không rõ nét, nhưng vẫn tiềm tàng trong số những huyện được lập ở quá về phiá Bắc. Do đó các thủ lãnh địa phương ở Chu Diên vẫn có thể khơi dậy trong lòng toàn thể dân chúng của họ một ý chí quật khởi theo tinh thần Hai Bà Trưng khi cần đến.
Sử Trung Quốc đã không nhắc đến Triệu Túc mà chỉ ghi lại các sự việc liên quan đến Lý Bí và cố vấn của ông là Tinh Thiệu, vì xét về mặt chính trị người Trung Quốc muốn chứng tỏ rằng đây là hai quan chức của bắc triều đình đứng lên nổi loạn chứ không phải dân địa phương. Nhưng uy quyền của Triệu Túc rõ ràng được căn cứ trên tài học của ông điều mà vượt ra ngoài tầm nhận thức của Trung Quốc. Theo sử liệu Việt Nam, việc Triệu Túc nổi lên là lý do trực tiếp buộc Tiêu Tư phải bỏ trốn ngay khỏi Giao Châu.
Điều này dễ hiểu nếu ta nhớ lại rằng cuộc nổi loạn của Lý Bí bắt đầu từ Cửu Đức, nơi mà ông làm Giám quan. Có lẽ Lý Bí đã từ đó tiến lên phía Bắc qua châu Ái. Chu Diên ở trên biên giới với châu Ái và là cửa ngõ tiến vào đồng bằng sông Hồng. Khi Triệu Túc mở cửa Chu Diên để Lý Bí kéo quân vào đồng bằng sông Hồng thì Lương triều hiểu ngay rằng họ không còn hy vọng gì nữa nên Tiêu Tư phải mua chuộc để tìm đường chạy trốn khỏi Giao Châu. Trong khi Trung Quốc nhìn thấy những rắc rối về chiến lược trong sự lãnh đạo của Triệu Túc họ lại cố tình làm ngơ không biết ông là ai để chỉ nói đến Lý Bí là loại nguời đã được phân hạng theo đường lối chính trị có lợi cho Bắc triều.
Phản ứng của Lương triều đình về cuộc nổi loạn của Lý Bí rất mau chóng. Tôn Chung, Thứ Sử Cao Châu, và Lư Tử Hùng, Thứ Sử Tân Châu được lệnh đem quân đi dẹp Lý Bí. Cao Châu và Tân Châu là hai trong số những châu mới được lập ra từ châu Quảng cũ mà nay nằm về phiá Tây Quảng Châu. Tôn Chung và Lư Tử Hùng đều là dân địa phương và Lương triều tìm cách đẩy họ vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan một bên là phải biểu dương lòng trung thành với triều đình bằng cách tiến quân một bên biết rằng việc tiến quân vào miền biên giới này nhất định có nhiều rủi ro.
Đầu xuân năm 542 khi mùa mưa sắp bắt đầu, Tôn Chung và Tử Hùng yêu cầu được hoãn binh đến mùa Thu, khi những nguy cơ về sốt rét và những chứng bệnh khác do gió mùa gây ra giảm bớt. Nhưng lời yêu cầu của họ lập tức bị Tiêu Ánh bác bỏ, và Tiêu Tư lại thúc dục tiến quân. Đội quân miễn cưỡng này tiến tới Hợp Phố thì bị chặn đường và khoảng từ 60% đến 70% quân sĩ bị thiệt mạng, không rõ là vì sơn lam chướng khí hay vì bị quân Lý Bí phục kích. Quân Lương triều chạy tan tác và hậu quân hỗn loạn không dám tiến tới.
Tôn Chung và Lư Tử Hùng rõ ràng là nạn nhân của một sự chuẩn bị vội vàng do cấp trên bắt buộc. Có lẽ vì muốn gỡ lại danh dự bị tổn thương nên Tiêu Tư báo cáo về triều đình là hai tướng cầm quân thông đồng với giặc nên dẫn đến thảm bại. Sau khi báo cáo, Tiêu Tư được lịnh triều đình triệu hồi Chung và Hùng về Quảng Châu để xử tử hình.
Việc xử tử hai tướng này đã gây một làn sóng phản đối rất mạnh mẽ. Các con và cháu của Tôn Chung và Tử Hùng chiêu tập được một đạo quân bản bộ rất lớn, bắt được viên Đốc Hộ địa phương và tấn công Quảng Châu với ý định giết chết Tiêu Tư và Tiêu Ánh để báo thù. Nhưng Trần Bá Tiên đã kéo quân bản bộ 3.000 người đến kịp thời nên cứu thoát được Tiêu Ánh và tái lập trật tự ở Quảng Châu.
Sau chiến thắng này Trần Bá Tiên được tưởng thưởng với những chức vụ mới và ngày càng nổi tiếng hơn khi Tiêu Ánh qua đời sau đó không bao lâu. Còn tông tích Tiêu Tư thì không thấy nhắc đến nữa. Tình hình bấp bênh ở khắp miền Nam sau những biến cố trên không cho phép Lương triều mở một chiến dịch lớn lao nào khác để đánh dẹp Lý Bí ở Giao Châu trong một thời gian khá dài. Tuy nhiên Lương triều vẫn gửi đi những lực lượng nhỏ để dọ thám và quan sát tình hình Giao Châu.
Đầu mùa hè năm 543, quân Lâm Ấp lại xâm nhập Cửu Đức, không biết có phải là do nhà Lương xúi dục hay chỉ là một phản ứng tự nhiên của Lâm Ấp những sự rối ren chính trị ở phía Bắc. Lý Bí sai tướng Phạm Tu xuống Cửu Đức đánh quân Lâm Ấp nhưng thua phải rút về.
Thấy tình hình có vẻ sáng sủa hơn vì những đe dọa từ Bắc xuống và từ Nam lên đã tạm yên nên đầu năm 544 Lý Bí bắt đầu tổ chức giang sơn bằng việc tự xưng là hoàng đế Nam Việt. Nam Việt là nghĩa tiếng Việt từ chữ Nan Yueh. Lý Bí muốn gợi nhớ lại hình ảnh của Triệu Đà mà 7 thế kỷ trước đã bất chấp triều Hán, tự xưng là hoàng đế Nan Yueh. Lý Bí đặt tên nước là Vạn Xuân, và lấy niên hiệu là Thiên Đức. Ông thiết lập hệ thống triều đình và xây cung Vạn Thọ. Tinh Thiện được giao cho phụ trách dân sự và Phạm Tu phụ trách quân sự; Triệu Túc làm Thái Phó.
Thái Phó là một trong các tước gồm ba vị vương hầu có từ thời đại nhà Châu thời thượng cổ để cố vấn cho nhà vua về những điều tốt xấu trong nước. Đến thời Hậu Hán thì chỉ còn một người được phong chức Thái Phó. Nhưng đến thời nhà Tấn, lại quay lại lề lối cũ là có cả ba vị, và tất cả những triều đại về sau ở miền Nam cũng đều theo lệ đó. Sự xuất hiện của chức vị Thái Phó ở Việt Nam thế kỷ 6 cho thấy Triệu Túc được coi như quân sư hàng đầu của Lý Bí.
Xuất thân là giám quan ở biên thùy khi rời miền Nam lên kinh đô Lương để tìm một vị trí trong bắc triều, nhưng Lý Bí đã bất mãn quay về để lại làm việc cũ. Xét sự thông thạo của những người như Lý Bí và Tinh Thiện về triều đình và chính quyền Lương, lẽ tự nhiên là họ muốn được độc lập nhưng rập theo khuôn mẫu Trung Quốc. Ý tưởng có một vị hoàng đế, môt niên hiệu và một cái tên văn vẻ để đặt cho đất nước đều bắt nguồn từ những gợi ý từ triều đình Trung Quốc cả.
Trong khi đó, Triệu Túc rõ ràng là người gốc ở vùng đất thấp trong đồng bằng sông Hồng. Không có chứng cứ gì chứng mình rằng ông là một quan chức của triều đình Lương cả nhưng chắc chắn ông là chủ một gia đình địa phương có thế lực và có ảnh hưởng mạnh ở Chu Diên. Mặc dù Chu Diên nằm ở ven phiá Nam của một trung tâm nông nghiệp, nhưng chắc cũng đã bị bao trùm bởi văn hoá Phật Giáo của Việt Nam.
Họ Đỗ từng cai trị Việt Nam trong nửa cuối của thế kỷ 4 và đầu thế kỷ 5, thiết lập cơ ngơi ở Chu Diên. Đến cuối chương này, chúng ta sẽ thấy xuất hiện nhà sư Phật Giáo, danh tiếng nhất của Việt Nam ở cuối thế kỷ 6, là người gốc ở Chu Diên và cũng mang họ Đỗ. Vậy chúng ta có lý để tin rằng Triệu Túc tiêu biểu cho nền văn hoá Phật Giáo ở đồng bằng sông Hồng.
Là Thái Phó, Triệu Túc có thể đã gây được ảnh hưởng của Phật Giáo lên triều đình Lý Bí. Có bằng chứng cho thấy là một ngôi chùa Phật Giáo với bức tượng “Amitabha”, cao gần 2 mét rưỡi, ngồi trên bệ, được tạc bằng đá, và xây dựng bởi Lý Bí. Kiểu dáng của tượng Amitabha mà nay vẫn còn, rất giống với những tượng được thấy ở Long Môn, Bắc Trung Quốc thuộc thế kỷ 6.
Ông Nguyễn Phúc Long, một sử gia Việt Nam đương đại, cho rằng người như Tinh Thiệu đã từng phục vụ ở triều đình Lương tại Nam Kinh tất đã đem kiểu này từ Trung Quốc về Việt Nam. Bức tuợng vĩ đại được tạc nên để khánh thành triều đại Lý Bí đầu tiên ở Việt Nam. Tượng được đặt ở trong một ngôi chùa tên là Vạn Phúc mà không đề ngày tháng xây dựng, nhưng sử gia Nguyễn Phúc Long cho là ngôi chùa này được xây đựng cùng thời với cung Vạn Thọ. Phúc và Thọ là những danh từ tốt đẹp được dùng nhiều trong văn chương Việt Nam và Trung Quốc thời thượng cổ. Dù sao thì việc lấy Phật Giáo làm nền tảng hậu thuẫn cho một truyền thống quân chủ và độc lập là một trong những chủ đề quan trọng trong lịch sử Việt Nam sau này, đặc biệt là từ thế kỷ 10 đến 14. Chủ đề này có thể đã bắt rễ từ các phong trào độc lập trong thế kỷ 6 và cũng có thể được truy nguyên từ thời Sĩ Nhiếp.
Lý Bí tổ chức triều đình theo phong cách Trung Quốc và có lẽ chính ông là vị vua Việt Nam đầu tiên đỡ đầu cho Phật Giáo vì có nhiều bằng chứng cho thấy nhà vua rất tôn trọng tinh thần thờ phụng của toàn dân chúng. Những di sản và tài liệu về các đình chùa cho thấy Lý Bí đã cho xây một ngôi đền thờ và truy phong chức tước cho Bà Triệu, người nữ anh hùng lãnh đạo cuộc nổi dậy giành độc lập vào năm 248. Ngôi đền thờ này vẫn còn tọa lạc ở vùng đất xưa kia là Cửu Chân hay Ái Châu. Có lẽ Lý Bí cũng biết rằng muốn bắc tiến thì phải đi qua châu Ái như Bà Triệu đã làm trước đó nên sau khi dựng cờ khởi nghĩa ông đã cho xây ngôi đền này, trước là ghi nhớ công lao người nữ anh hung, sau là kích thích tinh thần quân sĩ.
Mặc dù trị vì vỏn vẹn chỉ được vài năm, điều vua Lý Bí luôn quan tâm là trấn thủ chặt chẽ vùng biên thùy và giữ cho dân chúng thái bình. Tài liệu còn sót lại duy nhất nói về việc này là vài dòng ngắn ngủi sau đây viết về Lý Phục Man, một trong các tướng lãnh của Lý Bí:
“Ông (Phục Man) phụ tá vị vua ở phương Nam này với tư cách là một đại tướng quân và nổi tiếng là một người trung thành và dũng cảm. Ông được giao phó cai quản hai vùng thung lũng Đỗ Động và Đường Lâm; bọn Lao [man di] rất sợ ông và không dám gây rối, ông đã giữ được thái bình trong khắp vùng”.
Lý Phục Man được dân chúng thờ phụng sau khi ông mất và được truy phong sau này bởi một vị vua Việt Nam ở thế kỷ 11. Đỗ Động và Đường Lâm được nhắc đến trong các sử liệu Việt Nam ở thế kỷ 10 như là một khu vực nằm dọc theo bờ nam sông Hồng, tây bắc Hà Nội ngày nay. Nhiệm vụ quan trọng của Lý Phục Man là canh giữ bờ nam sông Hồng và bên kia sông là quê hương của Lý Bí nơi ông có trách nhiệm canh giữ bờ phiá bắc để cả hai cùng chung lưng khoá chặt con đường chiến lược dẫn vào vùng núi non và chế ngự vùng đồng bằng khỏi bị các bộ lạc trên núi xuống quấy rối. Những bộ lạc kể trên này được người Trung Quốc và Việt Nam thời đó gọi là Lao; nhưng chân tướng đích thực của họ thì không được rõ, dù được cho là có liên hệ đến các dân tộc thuộc ngữ hệ Thái.
Kinh đô của Lý Bí không được nói rõ trong sử liệu, nhưng chúng ta có thể đoán chính là vùng Gia Ninh, nằm cạnh quê nhà của Lý Bí nơi mà sông Hồng được các sông nhánh khác đổ vào. Tương truyền rằng Gia Ninh, một trung tâm chính trị thiên nhiên ở ngay cửa ngõ vào đồng bằng sông Hồng, là nơi các vị vua Hùng đã từng cai trị Việt Nam rất lâu trước đó.
Trong khi Lý Bí và phụ tá Lý Phục Man canh giữ vùng núi và duy trì thanh bình ở miền đồng bằng thì những tướng quân tin cẩn khác như Phạm Tu, canh giữ vùng biên thùy giáp Lương và giáp Lâm Ấp. Nền hành chánh ở vùng đồng bằng có thể do Tinh Thiệu giám sát từ trị sở của ông trong thành Long Biên. Còn gia đình Triệu Túc, chắc chắn là một gia đình có thanh thế khắp vùng đồng bằng sông Hồng.
Không may cho Việt Nam những hoạt động đầu tiên nói trên của họ để tiến tới độc lập đã bị phá vỡ bởi tài cung kiếm và những tham vọng đế vương của Lương tướng Trần Bá Tiên. Tuy bị bắc triều đè bẹp như thế các phong trào nổi dậy giành độc lập vẫn tiếp tục hoạt động nhiều chục năm sau để luôn nhắc nhớ người Việt rằng họ là một dân tộc riêng biệt. Chính tinh thần độc lập luôn được hun đúc ấy đã đóng góp vào việc giành lại nền độc lập cho Việt Nam sau này.
Lại nhắc lại chuyện Lý Bí, vào năm 545, Lương triều đã phần nào ổn định được tình hình ở phuơng Nam nên lại chuẩn bị để tấn công Lý Bí. Dương Phiêu được phong Thứ Sử Giao Châu và Trần Bá Tiên chịu trách nhiệm về quân sự. Một đội quân gồm phần nhiều là các chiến binh dày dạn kinh nghiệm được tập hợp tại châu Quảng và tiến về phiá Tây để nhập chung với quân của Tiêu Bột, Thứ Sử Định Châu, nay là Quảng Tây. Vì cha của Tiêu Bột là anh em họ với vua Lương nên lời nói của ông rất có ảnh hưởng. Hơn nữa, ở Định Châu đã lâu, Tiêu Bột lại được ở vào địa vị để có thể hiểu biết rõ tình hình ở miền Nam xa xôi, nênTiêu Bột nhắc lại những nỗi sợ hãi của các quân sĩ khi phải tiến vào miền xa xôi ấy và khuyên Dương Phiêu hãy bỏ cuộc viễn chinh và tìm mưu lược khác. Dương Phiêu bèn triệu tập một cuộc họp để hội ý các quan quân nhà Lương. Chính những phát biểu cương quyết của Trần Bá Tiên trong hội nghị này đã dẫn đến quyết định tiếp tục đem quân tấn công Lý Bí và chứng tỏ rằng mộng đế vương của Trần Bá Tiên sẽ thành hiện thực sau này:
Giao Chỉ đã nổi dậy làm loạn và chống lại triều đình, gieo rắc hoang mang và rối loạn sang nhiều châu khác mà vẫn không bị trừng trị năm này qua năm khác. Định Châu muốn hưng binh bí mật tiễu phạt để giải quyết tình hình thay vì tấn công trực tiếp nhưng chúng ta đã nhận được lệnh vua để trừng phạt một tội phạm thì chúng ta phải thi hành lệnh ấy dù chết cũng cam. Nếu chúng ta cứ loanh quanh mãi mà không tiến quân thì càng làm tăng uy thế của loạn quân và làm mất tinh thần quân sĩ chăng ?
Thuyết phục bời những lời lẽ hùnng hồn của Trần Bá Tiên, Dương Phiêu phong y làm tướng tiên phong và ra lệnh tiến quân. Gần cuối mùa hè năm 545, quân Lương tiến vào giang sơn Vạn Xuân. Lý Bí huy động quân lên tới 30.000 người để nghênh chiến khi địch tiến tới đồng bằng sông Hồng. Quân Lương triều tiến vào vào bằng đường nào không thấy ghi trong sử, nhưng dựa theo các chi tiết của cuộc chiến, có thể là bằng đường thủy.
Bị Trần Bá Tiên đánh bại ở vùng đất thấp dưới Chu Diên, Lý Bí liền rút về cửa sông Tô Lịch, vùng ven biên Hà Nội bây giờ. Nơi đây, ông tìm cách chận đánh Bá Tiên với một hệ thống phòng thủ xây đắp vội vàng nên lại thua và phải rút về cố thủ và sau đó bị quân nhà Lương bao vây trong thành Gia Ninh.
Đến năm 546, thành Gia Ninh bị hạ. Nhưng Lý Bí đã chạy thoát được vào vùng núi gần đó, tá túc với các bộ lạc Lao. Từ đây ông lại cố gắng tập hợp một số quân sĩ cùng với một số các thủ lãnh bộ lạc Lao để đến mùa thu năm ấy, ông lại kéo 30.000 quân xuống đồng bằng quyết một trận sống mái với quân nhà Lương.
Lý Bí đóng quân ở bờ hồ Điển Triết trên biên giới quận Tân Xương giữa vùng núi và đồng bằng. Hồ Điển Triết là một hồ điều tiết nước thiên nhiên, cung cấp nước cho các con sông nằm quanh trong mùa cạn và nhận nước từ những sông này vào mùa lũ. Để chuẩn bị, Lý Bí cho quân sĩ đóng nhiều thuyền đậu đầy mặt hồ. Quân Trần Bá Tiên đóng ở vùng cửa hồ và quan sát các hành động chuẩn bị của Lý Bí mà thêm sợ hãi. Cảm thấy giờ phút quyết liệt đã đến, Trần Bá Tiên vội họp các tướng sĩ lại và nói:
Ta cầm quân đã bao lâu nay rồi và quân sĩ hết sức mệt mỏi cả về tinh thần lẫn thể xác. Hơn nữa, chúng ta ở đây trơ trọi không có quân cứu viện mà lại tiến quá sâu vào đất địch. Nếu không chiến thắng được trận này nữa, làm sao có thể hy vọng sống mà về? Nay vì lẽ địch đã mấy lần thua chạy, tinh thần của chúng tất giao động và bọn man di Lao lại không có kỷ luật và không tin cậy được, nên sẽ dễ dàng cho chúng ta tận diệt. Chúng ta chỉ còn một cách là đánh cho đến hơi thở cuối cùng, tập trung tất cả sức mạnh của ta để chiến thắng. Không có lý do gì trì hoãn nữa. Giờ quyết liệt đã điểm.
Nghe thấy thế các quan quân nhà Lương đang lo lắng đều lấy làm sững sờ và không biết trả lời ra sao vì họ biết rằng, mặc dầu Lý Bí đã thua mấy trận nhưng tài lẩn tránh của ông thật tài tình, nên rất có thể Lý Bí sẽ tồn tại được lâu hơn sức mạnh tấn công của Lương quân. Việc Trần Bá Tiên khẳng định rằng “tinh thần dân quân [ của Lý Bí] giao động” là duy ý chí vì chỉ dựa trên lòng trung thành của ông với bắc triều.
Về phía vua Việt Nam Lý Bí, vì thời gian trị vì quá ngắn ngủi nên chưa tạo được lòng trung thành sâu đậm trong dân chúng Việt. Hơn thế nữa, ý tưởng độc lập đối với triều đình phương Bắc có lẽ còn quá mới để có thể nhiều người lĩnh hội được. Gần một năm đã trôi qua từ khi Lý Bí phải rút lui vào vùng núi nên sự trở về của ông chắc đã nâng cao được tinh thần của người Việt và họ hy vọng rằng cuộc phản công lần này có thể sẽ quét sạch được đạo quân Lương đơn độc ra khỏi bờ cõi.
Đoạn trích lời hiệu triệu của Bá Tiên ở trên cho thấy ở một mức độ nào sự thành công của Lương quân tùy thuộc vào tư cách của một cá nhân và cũng ở một mức độ nào đó các lời hiệu triệu này đã giúp Lương quân vượt qua được những thử thách của các cuộc nổi dậy đang dấy lên như sóng cồn ở miền Nam. Những cái gọi là “sự thất bại” của Lý Bí được ghi trong sử liệu Trung Quốc thật ra có thể chỉ là những lần rút lui chiến lược của ông nhắm mục đích nhử cho quân Trung Quốc vào thật sâu trong nội địa, xa hẳn các căn cứ tiếp tế, để rồi đánh cho chúng bị hao mòn vì mệt mỏi. Nếu kế hoạch của Lý Bí đúng là như thế thì sự lì lợm của Bá Tiên chỉ đưa y đến chỗ thất bại mà thôi. Nói theo Ngô Sĩ Liên, có lẽ lòng Trời chưa thuận cho Lý Bí và nước Việt non trẻ, ngay cái đêm mà Trần Bá Tiên hiệu triệu tướng sĩ thì mưa đổ rất nhiều, mực nước sông đột nhiên dâng cao làm cho nước từ các sông tràn thật nhanh vào hồ Điển Triết khiến các ghe tàu của Lý Bí bị rối loạn. Nắm ngay lấy cơ hội ấy, Bá Tiên cho quân xuống thuyền và kéo tràn vào trong hồ giữa bao tiếng hò reo vang trời. Vì không ngờ là nước sông lại tràn vào hồ nhanh như thế nên quân sĩ của Lý Bí bị rối loạn, tan rã hàng ngũ. Lại một lần nữa Lý Bí chạy thoát vào miền núi giữa các bộ lạc Lao và tập hợp lại quân sĩ trong thung lũng Khuất Liễu ở thượng lưu sông Hồng để tiếp tục chiến đấu. Nhưng lần này một trong các bộ lạc người Lao đã bị Trần Bá Tiên mua chuộc nên đã ám hại và gửi thủ cấp Lý Bí về cho Bá Tiên. Năm 547, sau cái chết của Lý Bí, anh lớn của ông là Lý Thiên Bảo trốn thoát được và chạy về bờ biển ở phía nam Cửu Đức. Nơi đây, với sự hậu thuẫn của một thủ lãnh địa phương là Lý Thiệu Long, ông triệu tập được một đạo quân lên tới 20.000 người. Sau khi tiến quân vào Cửu Đức và giết được Trần Văn Giỏi, Thứ Sử của Lương triều, Thiên Bảo tiếp tục đem quân tiến đánh Ái Châu nhưng Trần Bá Tiên đã kéo viện binh đến kịp thời và Lý Thiên Bảo lại phải chạy vào miền núi. Qua các sự kiện trên chúng ta thấy rằng vì tính cương quyết của Bá Tiên nên vương quốc Vạn Xuân non trẻ của Lý Bí đã bị dẹp tan, nhưng vì những rối loạn bùng nổ ngay sau đó ở miền Bắc đã khiến Trung Quốc không thể tiếp tục kiểm soát Việt Nam được nữa.
Việt Nam khai quốc: cục diện thế kỷ thứ vi xét theo sử liệu Trung Quốc (chương 4, phần 2)
Các tài liệu của Trung Quốc và Việt Nam đều có ý kiến trái ngược nhau về các diễn biến lịch sử tại miền Nam vào thế kỷ 6. Trước khi nghiên cứu các sử liệu Việt Nam, chúng ta hãy xem xét cẩn thận các quan điểm trong sử liệu của Trung Quốc để xác định xem mức độ khả tín từ phía sử liệu Việt Nam. Điểm chính là xét đến sự sụp đổ của quyền lực Trung Quốc đã tạo được những khoảng trống để người Việt Nam có thể theo đuổi nền chính trị độc lập của họ trong thời gian này.
Năm 548, sau khi dẹp tan được cuộc nổi dậy của Lý Bí, Trần Bá Tiên quay về với chức vụ cũ của ông là Đốc Hộ Quan ở sông Tích trong tỉnh Quảng Tây bây giờ. Lúc đó, đế quốc Thác Bạt, (tức là triều Bắc Ngụy) đã từng thống trị miền Bắc Trung Quốc trong một thế kỷ rưỡi, đang bị tan rã dưới áp lực của những vị tướng quân Trung Quốc đầy tham vọng và kiểm soát phần lớn vùng đồng quê Trung Quốc. Trong số các vị tướng này có Hầu Cảnh làm Thứ Sử khu vực tỉnh Hồ Nam bây giờ. Năm 547, Hầu Cảnh tuyên bố là ông sẽ trung thành với triều Lương, nhưng qua năm sau, với nội ứng của một số hoàng thân và quan chức Nhà Lương, ông đã công khai tấn công kinh đô Nhà Lương và giết được Lương Vũ Đế vào năm 549.
Việc Hầu Cảnh làm phản ở kinh đô khiến Trần Bá Tiên càng nôn nóng muốn kéo ngay quân về Bắc để đọ sức với kẻ soán nghịch. Vào năm 548 khi đang sắp sửa kéo quân về cứu giá Lương triều thì Bá Tiên được tin Thứ Sử châu Quảng là Nguyễn Cảnh Trọng đang bí mật chuẩn bị theo phe Hầu Cảnh. Thế là xung đột giữa Bá Tiên và Cảnh Trọng nổ ra công khai ngay lập tức. Năm 549, Bá Tiên đánh bại Cảnh Trọng và mời Tiêu Bột làm Thứ Sử Quảng Châu. Như thế là mặt phía Nam đã tạm ổn nên Bá Tiên lại tính đến chuyện Bắc tiến, nhưng ông vẫn biết rằng vẫn còn nhiều khó khăn trước mặt vì trên đường bắc tiến, nằm giữa châu Quảng và vùng núi rừng ở phía Bắc ngăn chia lưu vực sông Tích và sông Dương Tử, là châu Hàng. Khi Bá Tiên mang quân đánh Lý Bí năm vào 545 thì có Lan Khâm, thứ sử Hàng Châu và người phụ tá rất tin cậy của ông ta là Âu Dương Nguy đi theo. Khi Lan Khâm chết vì bệnh trên đường đi đến Giao Châu thì Âu Dương Nguy được phép đem thi thể Lan Khâm về Hàng Châu. Sau đó, Âu Dương Nguy được lệnh ở lại canh giữ Hàng Châu để các quan chức tháp tùng Bá Tiên Bắc tiến đánh Hầu Cảnh.
Khi Hầu Cảnh giết được Lương Vũ Đế thì ở miền Nam, các quan chức địa phương tranh nhau nổi lên chiếm quyền và giành đất đai; trong số đó có Lan Dụ là em của Lan Khâm đã chết. Lúc đó Lan Dụ đang làm Thứ Sử Cao Châu và có ý rủ Âu Dương Nguy theo y làm phản nhưng Nguy từ chối. Thấy thế Lan Dụ bèn xua quân đánh Âu Dương Nguy ở Hàng Châu nhưng nhờ có Trần bá Tiên kéo quân đến cứu nguy nên Lan Dụ bị đánh bại. Vì thế sau này Âu Dương Nguy đã giúp Trần Bá Tiên khi ông tiến qua vùng núi Hàng Châu để tiến đánh Hầu Cảnh.
Cũng như đã từng khuyên Trần Bá Tiên đừng đánh Lý Bí, Tiêu Bột lần này lại khuyên Bá Tiên nên kiềm chế nhưng Bá Tiên cũng vẫn không nghe. Năm 550, Bá Tiên thắng một trận lớn ở phía Bắc dãy núi nằm trong tỉnh Giang Tây ngày nay nên được một hoàng thân triều Lương thưởng công bằng cách phong ông làm Thứ Sử Giao Châu. Cần nói thêm rằng rõ ràng Trần Bá Tiên lúc đó không ở Giao Châu nên trong tình hình nhiễu nhương đó những vụ bổ nhiệm của Lương triều chỉ là hình thức.
Năm 551, Trần Bá Tiên lại đánh thắng nhiều trận khác nữa và đến năm 552, Hầu Cảnh bị đánh bật ra khỏi kinh đô và bị giết chết. Nguyên đế, một hoàng thân nhà Lương gốc ở vùng trung lưu sông Dương Tử, lên ngôi và giao phó nửa phần phía Đông Trung Quốc, bao gồm cả kinh đô, cho hai vị tướng quân có uy thế nhất trong đó có Trần Bá Tiên; còn vua thì đóng đô ở thành trì mà bây giờ gọi là Vũ Hán (Hán Khẩu). Miền Nam thì vẫn trong tay Tiêu Bột.
Vào lúc đó việc đầu tiên của Tiêu Bột là dẹp yên một cuộc nổi dậy mới ở Quảng Châu. Việc Lương triều bị suy sụp quyền lực ở miền Nam được kể trong sử Trung Quốc rằng khu vực dưới quyền của Tiêu Bột trải dài ra gần 1.000 dặm, mà dân số đăng ký không quá 30.000 người. Một dặm Hoa thường được tính là 360 bộ, như thế 1.000 dặm Hoa tính ra khoảng 365 dặm Anh gần bằng khoảng cách từ hành dinh của Tiêu Bột ở Quảng Châu đến sát biên giới Giao Châu. Do đó câu nói “1.000 dặm” trong sử liệu Trung Quốc có tính cách khoa trương cả về tâm lý và địa lý. Nếu ta để ý thêm một chút nữa thì câu “chưa đến 1 nghìn dặm” có ngụ ý rằng phạm vi quyền hành của Tiêu Bột hết sức giới hạn.
Tuy là một người hợp tác cũ với Bá Tiên, nhưng Tiêu Bột lại không được Nguyên đế tin cẩn lắm vì thấy ông chiêu mộ và huấn luyện một đạo quân rất lớn. Hòng phá tan mối nghi ngờ của vua, Tiêu Bột đánh liều về triều yết kiến Nguyên đế và sẵn sàng trả lời bất cứ tội trạng nào mà ông bị cáo buộc nhưng Nguyên đế vẫn giả bộ làm ngơ như không biết ông là ai. Đến năm 554, Nguyên đế sai Vương Lâm, một vị tướng danh tiếng ở miền Bắc xuống thay Tiêu Bột. Vương Lâm trú đóng gần một năm nơi ở nơi mà bây giờ là Quảng Tây. Cảm thấy bị sức ép từ triều đình do việc bổ nhiệm và trú đóng của Vương Lâm nên Âu Dương Nguy ngày càng ngả theo ý định làm phản của Tiêu Bột. Khi ấy, Âu Dương Nguy đang cai quản Thủy Hưng một địa điểm chiến lược nằm trên đường từ Quảng Châu lên phía Bắc. Tuy nhiên tình hình căng thẳng giữa Vương Lâm và Tiêu Bột đột nhiên tắt ngấm vì Vương Lâm phải vội quay về Bắc do các biến cố quan trọng diễn ra trên đấy.
Kể từ khi Hầu Cảnh cướp ngôi nhà Lương thì ở Tây Bắc Trung Quốc có xứ Thác bạt còn được gọi là Tây Ngụy, đang lấn chiếm biên giới Bắc và Tây của lãnh thổ Lương và cuối cùng thì Thác Bạt chiếm được kinh đô nhà Lương vào năm 555. Tây Ngụy cũng chiếm phần lớn vùng trung lưu sông Dương Tử mà về sau trở thành triều đại Bắc Chu vào năm 557. Chính vì muốn chống lại cuộc xâm lăng này mà đột nhiên Vương Lâm phải vội quay về Bắc vào cuối năm 554 nhưng không quên để Lưu Nguyên Yển, một bộ hạ thân tín của ông, ở lại Quảng Tây. Lưu Nguyên Yển là người được phong chức thứ sử danh dự Giao Châu vì ông ta chưa đặt chân lên đất Giao Châu bao giờ.
Ngay sau khi Vương Lâm về Bắc thì Tiêu Bột tiếp tục củng cố sức mạnh quân sự. Cuối năm 555, khi Tiêu Bột đang củng cố địa vị ở miền Nam thì Lưu Nguyên Yển lại đem quân trở về Bắc để tìm gặp Vương Lâm. Năm 556, cả Tiêu Bột lẫn Âu Dương Nguy được Trần Bá Tiên thăng chức. Tuy nhiên đến đầu năm sau, khi Bá Tiên đoạt ngôi nhà Lương và chính thức xưng đế nhà Trần, thì Tiêu Bột, vì thuộc dòng giõi hoàng tộc Nhà Lương, đã thẳng thừng tuyên chiến. Tiêu Bột ở lại Thủy Hưng và sai Âu Dương Nguy đem quân lên Bắc để đánh tân vương là Trần Bá Tiên nhưng Âu Dương Nguy bị thua và bị bắt. Tin thua trận vừa về đến Thủy Hưng thì bộ hạ của Tiêu Bột vội vã thủ thân ai lo phận nấy. Trong số các bộ hạ này có Trần Pháp Vũ, đã làm phản và giết được Tiêu Bột. Cũng như trước đó Trần Bá Tiên với chức Thứ Sử danh dự Giao Châu, Lưu Nguyên Yển với chức thứ sử danh dự Giao Châu, Trần Pháp Vũ cũng giữ chức thứ sử danh dự Cửu Đức vào năm 557 mặc dầu ông ta chẳng bao giờ ở Cửu Đức, trừ thời gian theo Trần Bá Tiên đi đánh Lý Bí.
Sau khi Tiêu Bột chết, miền Nam lại rối loạn. Biết được là Âu Dương Nguy cũng có một ít uy danh ở miền Nam nên Trần bá Tiên quyết định thả ông về và bổ ông làm Thứ Sử Hàng Châu kiêm Đô Đốc với quyền hành quân sự trên toàn bộ 19 châu mà trên lý thuyết bao gồm cả hai châu Quảng và Giao. Con của Âu Dương Nguy là Âu Dương Hốt, là người cũng đã từng ở miền Nam, phụ tá cho cha để tìm cách lôi kéo phe Tiêu Bột cũ về quy thuận vì phe này đã rút về Quảng Châu.
Nhưng một tháng sau, Vương Lâm ở trong lưu vực sông Dương Tử lại nổi loạn và miền Nam phải gánh chịu sự cai trị hà khắc của y tới ba năm. Mặc dầu được Tân vương Trần Bá Tiên phong chức vào năm 557, Vương Lâm vẫn ngấm ngầm trung thành với hoàng gia Lương. Được hậu thuẫn của một quan chức ở miền Nam nên năm 558 Vương Lâm tìm cách lôi kéo họ về hẳn phe cánh với ông. Cũng vào năm ấy, Âu Dương Nguy được bổ nhiệm Thứ Sử Quảng Châu, có lẽ vì Trần Bá Tiên muốn mua chuộc lòng trung thành của ông. Khi Trần Bá Tiên mất năm 559, Thứ Sử Quế Châu tức Quảng Tây bây giờ đến quy thuận Vương Lâm nhưng Âu Dương Nguy vẫn trung thành với Bá Tiên và được phong môt loạt chức tước mới và quyền lực cao hơn. Rốt cuộc, đến năm 560, Vương Lâm bị đánh bại và buộc phải về ẩn trốn ở vùng Đông Bắc Trung Quốc. Trong thập kỷ sau, tình hình ở miền Nam được tương đối ổn định dưới quyền cai trị của cha con Âu Dương Nguy.
Tương truyền rằng trong thời gian Vương Lâm nổi loạn, Âu Dương Nguy bí mật nhận được một số vàng từ Viên Đàm Hoãn, lúc đó là Thứ Sử Giao Châu. Âu Dương Nguy đem một phần số vàng ấy chia cho Thái Thú Hợp Phố và phần còn lại ông đem cho con trai mình là Âu Dương Hốt. Việc làm mập mờ này có lẽ có liên quan đến việc tưởng thưởng cho lòng trung thành với Nhà Trần vì ông không theo phe nổi dậy của Vương Lâm.
Khi Viên Đàm Hoãn chết, chức Thứ Sử Giao Châu lại về tay em của Âu Dương Nguy là Âu Dương Thịnh. Chức này của Âu Dương Thịnh lại cũng rõ ràng là một chức danh dự bởi vì hành động duy nhất của ông được ghi lại là việc ông giúp anh ông ta dẹp yên được loạn quân ở Quảng Châu. Điều này gợi nhớ đến vụ bổ nhiệm Trần Bá Tiên làm Thứ Sử Giao Châu năm 550 sau khi Bá Tiên đã rời khỏi miền Nam, và cả vụ ra đi của Lưu Nguyên Yển, Thứ Sử Giao Châu lên miền Bắc để theo Vương Lâm vào năm 555; cùng là chức phong cho Trần Pháp Vũ, Thứ Sử Cửu Đức, người đã giết được Tiêu Bột ở Thủy Hưng năm 557. Những người này thực sự chắc cũng có ít nhiều liên hệ đến Giao Châu, có lẽ là đã tham gia đội viễn chinh của Bá Tiên đi chinh phạt Lý Bí, nhưng tất cả mọi bằng chứng đều cho thấy là họ chỉ giữ chức Thứ Sử danh dự mà thôi.
Năm 563, Âu Dương Nguy qua đời, Âu Dương Dương Hốt lên kế vị. Sử chép Âu Dương Hốt: “Rất oai nghiêm nhưng tử tế với người Bách Việt”. Danh từ Bách Việt được dùng ở đây như một từ tổng quát để chỉ tất cả mọi dân bản xứ ở miền Nam và câu “những người đã sống với người Bách Việt” là chỉ những người Trung Quốc và họ hàng của họ ở miền Nam. Từ sự việc đó, ta có thể cho rằng gia đình Âu Dương đã tạo được một cảnh thái bình tương đối trong khu vực dưới quyền kiếm soát của họ mà rõ ràng là không vượt quá vùng Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay. Năm 567, Thứ Sử châu Định, bây giờ là Hồ Nam, nổi loạn và rủ Âu Dương Hốt theo mình. Tuy Dương Hốt không đóng vai trò gì tích cực trong vụ nổi loạn ngắn ngủi này ông cũng bị Triều Trần nghi ngờ. Năm 569, khi được gọi về triều trình diện, Âu Dương Hốt quyết định không về và công khai làm loạn. Năm 570, ông bị bắt và bị đem chém đầu.
Năm 570 đánh dấu một bước ngoặt nhỏ ở miền Nam. Từ khi Lý Bí nổi dậy vào năm 541, miền Nam luôn luôn ở trong tình trạng bất ổn định. Hoặc nếu có một chút ổn định nào đó thì đều được thi hành bởi những người địa phương có thế lực mạnh, những người biết tránh liên lụy đến những rối ren chính trị ở Bắc, hoặc là biết khéo léo lợi dụng những cơ hội ấy. Đi đầu là Trần Bá Tiên rồi đến những nhân vật lãnh đạo khác ở miền Nam theo sau ông đều công khai nổi loạn.
Sau cái chết của Âu Dương Hốt vào năm 570, triều Trần đặt ra biện pháp tổng quản quyền hành ở miền Nam. Sử chép rằng vào thời đó “những người Lao man di ở Giao Chỉ thường hay tụ tập lại đi cướp phá” và Nguyễn Trác được giao nhiệm vụ giải quyết việc này. Tuy thế Giao Chỉ vẫn liên lạc với Lâm Ấp và việc buôn bán về “vàng, chim trả, ngọc trai, đồi mồi, ngọc quý và những đồ hiếm quý” vẫn phát đạt vì tất cả những “sứ giả” gửi xuống Giao Chỉ, từ đầu đến cuối, chỉ lo tích lũy của cải; riêng có Nguyễn Trác thì không làm như thế, và bỏ về tay không”.
Tin tức quý báu này đã soi sáng quan hệ giữa bắc triều và miền Nam xa xôi. Rõ ràng là những người được bổ nhiệm xuống Giao Chỉ đều chẳng ngó ngàng gì đến nhiệm vụ được giao mà chỉ đi theo nghề buôn bán vì béo bở hơn nhiều. Danh từ “sứ giả” dùng ở đây ngụ ý nói những quan chức nhỏ, cấp dưới không quan trọng. Mặc dù Nguyễn Trác cố chống lại những cám dỗ và lợi lộc ấy và bỏ về, ông đã thành công trong việc tạo được mối liên lạc giữa triều Trần và những ngôi chợ phồn thịnh ở miền biển Nam Hải vì trong những năm có cuộc viễn chinh của ông, các sứ bộ ngoại giao của Phù Nam và Lâm Âp, lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, đã sang tận triều Trần để yết kiến.
Ngoài việc mở lại những tiếp xúc thương mại, sứ mạng của Nguyễn Trác cũng tạo được ít ảnh hưởng ở biên giới. Không lâu sau đó, một người tên là Thái Ngung cũng bị nhà Trần tạm thời trục xuất xuống Giao Chỉ mặc dù sử đã không nói rõ y giữ chức vụ gì trước đó. Cũng vào thời gian đó, lại có một người khác tên là Đại Hoàng có tên trong danh sách các quan chức làm Thứ Sử châu Ninh, một trong hai châu xa lắc mà triều Lương thiết lập ở biên giới Lâm Ấp trước đó. Có lẽ Đại Hoàng đã tháp tùng Nguyễn Trác và được phong chức này để thưởng công; mà cũng có thể y được phong chức này như là một chức danh dự mà chẳng bao giờ ra khỏi triều đình Trần cả. Còn về Thái Ngung, mặc dầu y bị đuổi xuống Giao Chỉ, có thể y lại được giao cho một quan hệ chính thức nào đó với các quyền lực địa phương; mặc dù sử liệu không ghi lại bằng chứng nào rõ rệt về một quan hệ như thế.
Trong hai năm sau khi Nguyễn Trác viễn chinh xuống miền Nam, tức là cho tới năm 572, một tướng quân tên Trần Khắc là nhân vật nổi bật nhất ở miền Nam với tư cách là Thứ Sử Quảng Châu. Trần Khắc sau đó lại được thay thế bởi Phượng Tần, một hoàng thân, cháu của mẫu thân Trần Bá Tiên. Phượng Tần được phong chức Đô Đốc là chức cũ của họ Âu Dương ngày trước. Ông nhậm chức vào năm 574 và năm 575 lại bị thay thế bởi một hoàng thân khác. Đến năm sau, ông này lại bị đổi đi, thành ra việc lãnh đạo không được liên tục trong những năm ấy.
Năm 576, Trần Quân Cảo được phong Đô Đốc Quảng Châu. Sử chép rằng: “Bộ lạc Di và những người Lao liên tục đánh lẫn nhau. Quân Cảo lại là một nho sĩ, không thông thạo việc quân sự; nên ông dốc hết tâm lực vuốt ve xoa dịu họ và giảng giải phải trái để đem lại sự hài hoà trong dân chúng”. Năm 578. Quân Cảo chết, thọ được 48 tuổi, chỉ sau hai năm tại chức.
Danh từ Lao, như chúng ta đã biết, là để chỉ những người sống trong vùng núi non miền Nam, và Li, danh từ ở thế kỷ 5 để nói các bộ lạc sống ở miền núi, là một từ được dùng ở thế kỷ 6 để chỉ những sắc tộc phi Trung Quốc sống định cư ở các vùng đất thấp. Người Việt Nam được coi là ở trong số các tộc Li. Theo kinh nghiệm của Quân Cảo, những quyền lực địa phương không thích vai trò kiểm soát của bắc triều, nên ông chỉ tìm cách đóng vai trung gian mặc dù chẳng đi tới đâu!
Những sự rối loạn này đã làm cho Trần Quân Cảo mệt mỏi và có lẽ vì thế ông qua đời sớm dẫn đến kết cuộc là quyền chỉ huy bao trùm của ông trước đó nay bị chia năm xẻ bảy ra thật nhỏ với việc xuất hiện khá nhiều Đô Đốc với quyền hạn trách nhiệm hết sức giới hạn. Theo sách An Nam Chí Lược căn cứ trên các sử liệu Trung Quốc, môt người tên Dương Tấn đã giữ chức Đô Đốc hai châu Giao và Ái một thời gian, sau khi Quân Cảo chết. Và khi triều đại Trần Bá Tiên sụp đổ vào năm 589, lại có một người tên Dương Hựu Phổ làm Đô Đốc Giao Châu.
Ngược lại với các vị đô đốc này, trong số những người có thể đã ở miền Nam với danh nghĩa đại diện của triều đình, có một người tên là Lý Hữu Vinh nào đó, được sử chép là Thứ Sử Giao Châu. Năm 583, Lý Hữu Vinh gửi một số voi đã huấn luyện thuần thục sang triều cống Trần Bá Tiên. Trước đó, voi được thuần hóa đem triều cống thường là của Lâm Ấp. Do đó việc tiến voi một cách lạ lùng của “Thứ Sử Giao Châu” hàm ý rằng Thứ Sử Giao Châu đang ứng xử theo lề lối ngoại giao phi Trung Quốc.
Việc duyệt xét lại một cách ngắn ngủi trên đây về những biến cố ở miền Nam trong thời gian 40 năm kể từ khi Trần Bá Tiên chiến thắng Lý Bí cho đến khi triều đình nhà Trần sụp đổ đều hoàn toàn lấy ở trong sử liệu Trung Quốc. Sử liệu nói về về Giao Châu trong thời gian này thì gần như không có, ngoại trừ lác đác nói đến những chức vị, thậm chí vài lời phê bình bâng quơ còn hầu hết chỉ nói đến những tiếp xúc thương mại thay vì chính trị. Những chi tiết mà chúng tôi đã xem xét theo sử liệu Trung Quốc đều hậu thuẫn những quan điểm cho rằng Trung Quốc vẫn tiếp tục kiểm soát Giao Châu trong suốt thời gian này. Tuy nhiên, có hai điều mâu thuẫn đáng lưu ý:
Điều thứ nhất là thông tin mà chúng tôi đã xem xét kỹ đều nói đến sự suy yếu của quyền lực Trung Quốc ở miền Nam trong suốt thời gian ấy. Trong khi Trần Bá Tiên trở về Bắc những năm 548-52, tinh thần vương triều cũng đi theo ông. Năm 552, quyền của Tiêu Bột không ra khỏi giới hạn tỉnh Quảng Tây bấy giờ. Khoảng giữa những năm 554-60, khu vực tỉnh Quảng Tây bây giờ lại phần lớn chịu ảnh hưởng Vương Lâm. Trong 10 năm sau đó, họ Âu Dương ở Quảng Châu áp dụng hệ thống gia đình trị và sự trung thành được xét theo từng cá nhân. Hệ thống cai trị này đã ảnh hưởng xuyên suốt xuống tới Giao Châu và xa hơn nữa mà phần chính là qua hệ thống thương mại. Sự sụp đổ của họ Âu Dương năm 570 mà tiếp theo là cuộc viễn chinh của Nguyễn Trác xuống tận miền biên giới đã khiến Lâm Ấp và Phù Nam phải vội gửi sứ giả lên triều đình. Nhưng điều này cũng không thu được kết quả gì và điều ngạc nhiên nhất là nhân vật Nguyễn Trác đã bặt tăm không được nghe nói đến nữa. Những tranh chấp địa phương đã gây nên sự tuyệt vọng của Trần Quân Cảo (576-78) và đưa đến kết quả là sự tan rã của quyền lực bắc triều trong khi triều đại Trần Bá Tiên thoi thóp dưới bóng nhà Tùy. Việc duy trì thương mại có thể là động lực của việc cống nạp voi lên triều Trần vào năm 583 bởi một lãnh tụ địa phương Giao Châu. Như vậy là nguồn sử Trung Quốc không đi ngược lại với điều cho rằng trong những năm nói trên, Giao Châu tự chủ, nếu không phải là độc lập một cách hữu hiệu.
Điều thứ hai là khá nhiều chi tiết lịch sử từ thế kỷ 6 vẫn còn được bảo tồn ở Việt Nam cho đến tận ngày nay. Khi Lý Bí qua đời, nhiều lãnh tụ địa phương nổi dậy chống lại bắc triều; và sau khi qua đời, họ đều được dân chúng lập đền thờ phượng. Những tiểu sử và đời hoạt động của những vị anh hùng ấy đã được ghi chép lại và bảo tồn trong những ngôi đền thờ cúng họ. Trong nửa đầu thế kỷ 12, những điều ấy đã được chép vào một tác phẩm lịch sử mà tiếc thay, không còn nữa (nhà Minh đã xâm chiếm Việt Nam và ra lệnh thu hồi về Trung Quốc hoặc đốt hết sách của Việt Nam vào thế kỷ thứ 14). May mắn là một số những điều trong tác phẩm bị thất lạc đó đã được sao chép lại sang những sách khác còn tồn tại cho đến nay. Như chúng ta vẫn hằng mong ước, những chi tiết lịch sử giá trị từ tiểu sử và hoạt động của các vị anh hùng được phong thánh là những gì còn lại, mặc dù không tránh khỏi ít nhiều huyền tích. Tuy thiếu những sự kiện lịch sử giúp chúng ta hiểu được thực sự những gì đã xảy ra; các lời truyền tụng và ghi nhớ trong các đền thờ cũng phô bày một cách rõ ràng môi trường văn hoá mà trong đó những biến cố ấy diễn tiến, hoặc là được dân chúng tạc ghi trong lòng và truyền lại cho con cháu. Từ đó chúng ta có thể kết luận rằng vào thời ấy, sau hơn 5 thế kỷ dưới ảnh hưởng Trung Quốc, chủ đề độc lập tự chủ đã có từ thời tiền Trung Quốc vẫn mang những ý nghĩa sống còn cho dân tộc Việt.
việt nam khai quốc: triệu quang phục (chương 4, phần 3)
Khi Lý Bí phải rút vào thung lũng Khuất Liễu sau khi bị Trần Bá Tiên đánh bại ở hồ Điển Triết vào năm 546 thì Triệu Quang Phục, con trai của Thái Phó Triệu Túc trở thành lãnh tụ kháng chiến trong đồng bằng sông Hồng. Triệu Quang Phục lập bản doanh trên một bãi đất nằm giữa khu đầm lầy ở Chu Diên mà nhân dân thường gọi là Đầm Nhất Dạ. Nơi đây theo truyền thuyết dinh thự thần tiên của công chúa Tiên Dung, con vua Hùng Vương, và phò mã Chử Đồng Tử một đêm kia đã bay về trời.
Đầm Nhất Dạ đúng là một nơi ẩn náu lý tưởng vì nếu đội quân nào không thông thạo đường lối ở trong đầm do hệ thống kinh rạch chằng chịt, mà cả gan kéo vào sẽ bị lạc lối, không biết đường đi nữa, và sẽ bị các chiến sĩ của Triệu Quang Phục bất thần xuất hiện và tấn công.
Triệu Quang Phục, theo sử sách ghi lại, đã tập hợp được tới 20.000 quân dưới quyền chỉ huy của ông. Ban ngày thì quân sĩ ẩn nấp ở trong đầm, nhưng đến đêm, ông cho quân ra phục kích, tịch thu lương thực, giết và bắt sống vô số quân nhà Lương, xong rồi lại rút nhanh vào chỗ an toàn trong đầm trước khi quân địch kịp thời đối phó.
Chiến thuật du kích này, theo các nguồn sử liệu Việt Nam, đã khiến Trần Bá Tiên phải than rằng: “Thời xưa, đây là đầm “nhất dạ thăng thiên” (ý ông muốn nhắc đến truyền thuyết lâu đài bay lên trời), nhưng bây giờ là đầm của bọn “nhất dạ đạo tặc”. Dù Trần Bá Tiên có thể chỉ coi Triệu Quang Phục như một tướng cướp, nhưng đối với nhân dân Việt Nam, Triệu Quang Phục lại là một vị anh hùng dân tộc đáng kính. Việc Triệu Quang Phục đặt bản doanh trên địa điểm từng ghi dấu huyền tích cũ không đơn thuần là tượng trưng mà còn mang một ý nghĩa quan trọng hơn nhiều đối với niềm tin của dân chúng.
Có hai biến cố quan trọng góp phần vào sự nổi dậy thành công của Triệu Quang Phục. Thứ nhất là sau cái chết của Lý Bí thì rất nhiều bộ hạ của Lý Bí đều hướng về Quang Phục như là người lãnh đạo mới. Thứ hai là việc Hầu Cảnh chiếm ngôi nhà Lương và giết Lương Vũ Đế vào năm 549 khiến Trần Bá Tiên phải nhanh chóng quay về Bắc. Một điều nữa không kém phần quan trọng là phương cách mà Triệu Quang Phục chính thống hoá quyền hành của ông như được trình bày sau đây.
Theo truyền thống và phong tục bản xứ, Triệu Quang Phục cho thiết lập một bàn thờ lớn ở giữa đầm, hương khói nghi ngút để vọng hồn các anh linh. Lòng thành của ông được đáp ứng khi Chử Đồng Tử cưỡi rồng vàng giáng trần và bảo ông rằng: “Tuy ta đã về tiên giới từ lâu rồi, nhưng hồn ta vẫn quanh quẩn nơi đây. Vì biết được thành tâm của ngươi và thấy ngươi hết lòng cầu khẩn, nên ta cảm thông, xuống giúp ngươi trong công việc dẹp yên rối loạn này”. Thế rồi Chử Đồng Tử rút ra một cái móng của con rồng vàng, đưa cho Triệu Quang Phục và phán tiếp: “Hãy đặt cái móng rồng này lên chóp nón của ngươi, từ nay đường ngươi đi sẽ dẫn đến thành công. Nói xong, Chử Đồng Tử hóa vào đám mây và biến về trời. Sau đó Triệu Quang Phục lên ngôi vua, xưng vương đất Việt và lấy hiệu là Dạ Trạch Vương.
Trong huyền tích này, Triệu Quang Phục tự khoác lên vai mình cái quan niệm đế vương rút tỉa từ những ý niệm của nhân dân về vấn đề chính thống trong chính trị. Việc Chử Đồng Tử hiện xuống phù trợ cho ông hàm ý rằng Triệu Quang Phục sẽ là một vị vua bảo tồn Phật Giáo, tôn giáo đã có từ thời Sĩ Nhiếp. Tư tưởng tôn giáo này có thể đã chưa xuất hiện vào thời Quang Phục, nhưng có lẽ đã phát triển sâu rộng hơn trong những thế kỷ sau, dưới ảnh hưởng của Phật Giáo và Lão Giáo vì các sử liệu cho thấy vào khoảng thế kỷ thứ 15 thì Chử Đồng Tử đã thành một hình ảnh quan trọng trong điện thờ các danh thần của Lão Giáo Việt Nam. Thật vậy, nguồn lịch sử cũ nhất về huyền tích này không nói gì đến Chử Đồng Tử mà chỉ nói đến một con rồng vàng. Việc lấy cái móng rồng làm tiêu biểu cho sự bất khả chiến bại và cho chủ quyền chính trị là mang màu sắc và âm hưởng của câu chuyện móng rùa mà ngày xưa đã từng đem lại quyền lực cho An Dương Vương bẩy thế kỷ rưỡi trước đó. Triệu Quang Phục đã khôn khéo sử dụng các huyền sử của Việt Nam trước khi bị Trung Quốc đô hộ để thu phục lòng dân và quân sĩ.
Dương Phiêu, người được phong Thứ Sử Giao Châu, và từng đi theo Trần Bá Tiên vào Giao Châu cũng không được nhắc đến nữa. Trong khi đó thì sử Việt Nam lại nói đến một vị tướng quân là Dương Sàn mà Trần Bá Tiên lưu lại khi ông đem quân về Bắc. Có thể Dương Sàn và Dương Phiêu là một nhưng bị lầm tên chăng? Sau khi Bá Tiên rút khỏi miền Nam và mải mê lo loạn Hầu Cảnh ở miền Bắc thi Triệu Quang Phục đã nhân thời cơ đánh bại và giết được Dương Sàn. Tàn quân Lương sống sót đều chạy cả về Bắc khi Triệu Quang Phục thu hồi được thành Long Biên và đem lại thái bình thịnh trị cho đồng bằng sông Hồng.
Trong khi đó, Lý Thiên Bảo, người anh lớn của Lý Bí, đem quân bao vây Lương quân ở Ái Châu nhưng bị Trần Bá Tiên đánh bại vào năm 547 và sau đó phải chạy trốn lên núi. Theo sử liệu Việt Nam, Lý Thiên Bảo thua chạy và dừng chân ở thung lũng Đà Năng, thượng lưu sông Đào, nơi được trời phú cho đất đai phì nhiêu và dân cư phồn thịnh. Ở đó Thiên Bảo cũng xưng là vua và lấy hiệu là Đào Lang Vương. Khi ông chết năm 555 vì bệnh, ông được một người họ hàng là Lý Phật Tử lên kế ngôi.
Năm 557, Lý Phật Tử đem một đạo quân xuống núi để đánh Triệu Quang Phục, đòi kế ngôi Lý Bí, và tự xưng là Nam Việt Vương. Sau những trận đánh kéo dài tại quê hương Lý Bí, Lý Phật Tử công nhận Triệu Quang Phục mạnh hơn và xin hòa. Về phần Triệu Quang Phục thì cho rằng vì dù sao Lý Phật Tử cũng là họ hàng của Lý Bí nên đồng ý chia đôi quyền lực đồng bằng sông Hồng. Lý Phật Tử được chia quận Tân Xương, vùng đất đai ở mạn Tây sông Hồng và đóng đô ở Ô Diên, phía Tây Hà Nội ngày nay. Còn Triệu Quang Phục thì giữ lại mảnh đất nông nghiệp ở phía Đông Giao Chỉ.
Những diễn biến kể trên liên hệ như thế nào với tình hình rối ren ở miền Bắc thì không có gì khó hiểu. Mặc dù rời Giao Châu từ năm 548, mãi đến năm 550 Trần Bá Tiên mới vượt được qua vùng núi phía Bắc và tiến vào lưu vực sông Dương Tử. Thời gian này, Triệu Quang Phục đã nắm lấy thời cơ đánh bại nốt những đám quân Lương còn sót lại của Trần Bá Tiên và chiếm trọn đồng bằng sông Hồng. Tiêu Bột ở Quảng Châu thì thế lực quá yếu ớt vì quá mải miết với những âm mưu của ông nên chả có ảnh hưởng gì đến Giao Châu. Năm 554, Vương Lâm đột nhiên kéo quân về nơi bây giờ là Quảng Tây và phong cho một bộ hạ của ông là Lưu Nguyên Yển chức Thứ Sử Giao Châu. Quang Phục và Nguyên Yển có thể đã chạm trán với nhau, nhưng có lẽ Nguyên Yển đang để hết tâm trí về miền Bắc, nên năm 555 ông lại kéo cả tùy tùng lên tiếp ứng Vương Lâm trong cuộc tranh giành quyền lực của hoàng tộc Lương.
Năm 557 là năm có thay đổi chính trị ở khắp Trung Quốc. Cũng cần nhắc lại vì Trần Bá Tiên tiếm ngôi nhà Lương lập nên nhà Trần nên Tiêu Bột sai Âu Dương Ngụy đem quân tấn công nhưng thất bại nên Tiêu Bột bị thuộc hạ Trần Pháp Vũ, cựu Thứ Sử Hàng Châu và Thứ Sử danh dự Cửu Đức, giết chết. Sau khi được Trần Bá Tiên tha và phục hồi chức vụ thì Âu Dương Ngụy đem quân về miền Nam nhưng vừa về đến nơi thì Vương Lâm nổi loạn. Từ năm 557 đến 560, Âu Dương Nguy phải đương đầu với thực lực mạnh nhất của Vương Lâm vào lúc ấy trong vùng Quảng Tây bây giờ và giáp giới Giao Châu. Triệu Quang Phục ở vào thế lưỡng đầu thọ địch, một bên là quân nhà Trần, còn bên kia là Lý Phật Tử. Có thể vì sự bất mãn ngày càng tăng trên miền Bắc mà ông buộc phải để yên cho Lý Phật Tử hiện diện ở đồng bằng sông Hồng, và cũng có thể vì lý do này mà Phật Tử dám đưa quân ra khỏi vùng núi ông đang ẩn náu.
Cũng có giả thiết cho rằng việc Viên Đàm Hoãn, Thứ Sử Giao Châu, bí mật chuyển một số vàng đến cho Âu Dương Nguy, là một trong những kế sách của Triệu Quang Phục nhằm mua chuộc Âu Dương Nguy để chống lại Vương Lâm vì rất có thể việc nổi loạn của Vương Lâm đem lại lợi thế cho Lý Phật Tử. Viên Đàm Hoãn có thể là đại diện của Âu Dương Nguy tại triều đình Triệu Quang Phục và là trung gian tiếp xúc giữa Quang Phục với Âu Dương Nguy. Sau khi vụ Vương Lâm kết thúc, người kế vị Đàm Hoãn là Âu Dương Thịnh có thể đã tiếp tục vai trò ấy mặc dầu, theo sử sách, công việc duy nhất của ông được chép lại trong thời gian ông làm Thứ Sử lại là ở trên miền Bắc. Cũng có thể là thời kỳ này Viên Đàm Hoãn chẳng dính dáng gì đến tình hình ở Giao Châu cả. Trong những năm 560, những “sứ giả” được đổi xuống Giao Châu và lưu trú ở đó thì phần lớn chỉ là để hành nghề thương mại. Chúng ta có thể kết luận một cách hợp lý rằng, Triệu Quang Phục, bằng cách nào đó, đã liên minh với gia đình Âu Dương bởi vì theo sử liệu Việt Nam, ông mất ngôi vào lúc Âu Dương Hốt nổi dậy rồi bị giết chính vào lúc có cuộc viễn chinh của Nguyễn Trác.
Triệu Quang Phục mất ngôi được nhớ đến mãi qua một huyền thoại tương tự như An Dương Vương. Cả hai sự kiện đều gần giống như nhau ngoại trừ tên tuổi của người đóng vai chính, và chiếc móng rồng thay cho cái nỏ có lẫy làm bằng móng rùa. Theo lập luận nêu ra ở thế kỷ 6, người con trai của Lý Phật Tử là Nhã Lang cũng lấy con gái của Quang Phục là Cao Nương và được phong làm phò mã. Nhờ có Cao Nương nên Nhã Lang lấy cắp được móng rồng, mà theo truyền thuyết Chử Đồng Tử đã trao cho Triệu Quang Phục, và thay thế bằng một cái móng rồng giả. Sau đó Nhã Lang đem móng rồng thật về cho cha mình là Lý Phật Tử. Thế rồi chiến tranh lại tái phát, Triệu Quang Phục bị thua ở khắp mọi nơi vì không còn móng rồng thần nữa. Khi chạy ra tới bờ biển thì ông được thần rồng vàng nổi lên đón về Thủy cung.
Việc nhắc lại huyền tích cũ này hàm ý giải thích những thăng trầm của Triệu Quang Phục và khơi lại những giá trị văn hóa bản xứ Việt đã tồn tại trước khi bị Trung Quốc đô hộ cũng như những biểu tượng văn hoá đặc thù khác. Nhưng quan trọng nhất là việc lần đầu tiên Triệu Quang Phục lấy hiệu vua có ý nghĩa từ tiếng bản xứ chứ không dùng tên gọi theo ý nghĩa Trung Quốc như Lý Bí đã làm trước đó. Triều đại Triệu Quang Phục đã để lại ấn tượng sâu đậm trên tâm tư người dân bản xứ nhưng chỉ có Lý Bí và Lý Phật Tử được sử Trung Quốc nhắc đến, còn Triệu Quang Phục thì không. Họ Lý được Trung Quốc nói đến vì tổ tiên là người Trung Quốc và đã làm việc với Bắc Triều với tư cách là Phụ Tá Biên Thùy được bổ nhiệm. Rõ ràng họ Triệu đã đi sát với văn hoá bình dân bản địa và mang sắc thái riêng của Phật Giáo Giao Chỉ nên Trung Quốc không muốn nhắc đến.
Triều đại của Dạ Trạch Vương Triệu Quang Phục bị kết liễu có thể liên quan đến cuộc viễn chinh vào năm 570 của Nguyễn Trác. Vào thời gian này trong khi Triệu Quang Phục phải đối phó với mọi cuộc xâm lăng từ phương Bắc thì Lý Phật Tử lại được hưởng lợi từ những biến cố ấy. Lý Phật Tử có thể đã liên minh với Nguyễn Trác để chống Quang Phục, hoặc đơn giản rằng ông đã chỉ xuất hiện sau khi Quang Phục và Nguyễn Trác đã đẩy nhau vào tình trạng kiệt quệ. Những người Lao mà, theo sử liệu Trung Quốc, hay tụ tập nhau lại để cướp phá Giao Châu vào thời gian có cuộc viễn chinh của Nguyễn Trác, có thể đã có quan hệ với Lý Phật Tử vì những người Lao này đã từng liên minh với Lý Bí, họ hàng của Lý Phật Tử. Về sau, rất có thể Lý Phật Tử đã nhờ họ giúp đỡ để chống lại Triệu Quang Phục. Nếu đúng là như thế, ta có thể giả thuyết rằng cuộc chinh phạt của Nguyễn Trác là nhằm mục đích giúp Triệu Quang Phục, nhưng bằng chứng dẫn đến tình huống này lại quá ít nên không thể kết luận chắc chắn được.
việt nam khai quốc: lý phật tử & sư tổ tỳ ni đa lưu chi (Vinitaruci) (chương 4, phần 4)
Chùa Dâu còn gọi là chùa Pháp Vân tỉnh Bắc Ninh được xây khoảng thế kỷ thứ 3, tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu Việt Nam
Nhìn lại những truyền thống bản xứ có từ thời thượng cổ mà Triệu Quang Phục đã tìm cách khôi phục và bổ túc thêm thì chiều hướng văn hoá ở Giao Châu dưới thời kỳ Lý Phật Tử được xem như là thời Phật Giáo đầu tiên được Việt Nam hóa. Một thế kỷ trước đó, hoàng đế Cao của nhà Tề (479-482), người rất sùng đạo Phật, đã loan báo ý định gửi những phái bộ truyền đạo Phật từ Trung Quốc xuống Giao Châu nhưng Tăng Thiện, một nhà sư gốc Trung Á, đã khuyên vua Tề rằng:
“Đất Giao Châu đã đang tiếp xúc với Ấn Độ. Giáo lý của Phật chưa được truyền đến kinh đô Tề của ta mà hai chục công trình Phật Giáo đã được xây dựng ở Luy Lâm, Giao Châu với hơn 500 người quy y và thuộc làu làu 15 pho kinh Phật rồi… Như vậy gửi những phái bộ truyền đạo đến đó là không cần thiết. Thay vào đó chúng ta nên gửi các quan chức đến để thanh sát những chùa chiền, tu viện tại đó…”
Đây là thông tin duy nhất còn lưu lại nói về tình trạng Phật Giáo Việt Nam giữa thời Sĩ Nhiếp cho đến thế kỷ 6. Rõ ràng là Phật Giáo đã đạt được một vị trí vững vàng trong dân chúng Việt Nam thời đó.
Thế kỷ 6 là thời kỳ đặc biệt sáng sủa cho sự phát triển của Phật Giáo ở Việt Nam. Việc các khuynh hướng Phật Giáo ở Ấn Độ và Trung Quốc được hội nhập và phát triển một cách dễ dàng và sốt sắng ở Việt Nam là bằng chứng của sự trưởng thành và nghị lực của Phật Giáo Việt Nam. Chúng tôi đã nói đến kiểu tượng Phật Long Môn với nét điêu khắc được coi như là bằng chứng về việc Phật Giáo Trung Quốc du nhập và phát triển tại Việt Nam vào thời Lý Bí. Cũng có nhiều bằng chứng khác cho thấy mối liên quan trực tiếp hơn về việc tiếp xúc giữa Phật Giáo Trung Quốc và Việt Nam vào thế kỷ thứ 6.
Dưới triều đại Trần Bá Tiên (557-589), chưởng môn đời thứ 3 của giáo phái Thiên Thai là Trí Nghi (538-597) đi thuyết pháp, viết kinh và tìm cách hệ thống hóa giáo lý nhà Phật. Mang tính chiết trung và không nhất thống trong phương pháp nhưng những chủ thuyết của giáo phái Thiên Thai vẫn lan tràn rất nhanh trong dân giã Việt Nam. Tuy nhiên giáo thuyết này lại chẳng tạo ảnh hưởng được giai cấp cầm quyền Việt Nam nếu đem so sánh với môn phái ngồi trầm tư mặc tưởng mà tiếng Phạn gọi là Dhyana, tiếng Trung Quốc gọi là Ch’an, tiếng Nhật gọi là Zen và tiếng Việt gọi là Thiền.
Thiền đã du nhập vào Trung Quốc từ một nhà sư Ấn Độ tên là Bồ Đề Đạt Ma. Nhà sư này đã du hành đến Trung Quốc và ở lại Thiếu Lâm Tự trong nửa phần đầu thế kỷ thứ 5. Phần lớn những gì nói về đức Bồ Đề Đạt Ma đều là huyền thoại cả. Tương truyền rằng sau này một đệ tử của đức Đạt Ma là Tuệ Khả lại truyền giáo lý lại cho nhà sư Tăng Xán. Trong thời kỳ Phật Giáo bị ngược đãi dưới triều hoàng đế Vũ (561-577) của Bắc Chu, cư sĩ Tăng Xán phải ẩn náu trên một ngọn núi ở Hồ Nam.
Năm 574, một người đạo Bà La Môn từ miền Nam Ấn Độ tên là Tỳ Ni Đa Lưu Chi tức Vinitaruci du hành đến miền Bắc Trung Quốc. Đem hết tuổi trẻ và tâm huyết vào việc nghiên cứu Phật Giáo ở Tây Ấn Độ nhưng chưa thành chánh quả, Tỳ Ni Đa Lưu Chi quyết đi tầm sư học đạo thêm nữa. Trên đường đi ông đã tới ngọn núi mà Tăng Xán ẩn náu và đã bái Tăng Xán làm sư phụ. Sau đó Tăng Xán khuyên Tỳ Ni nên tiếp tục du hành về phương Nam vì tình hình bất ổn ở phương Bắc, và nhất là sự ngược đãi Phật Giáo đang hoành hành ở đó. Xuôi nam Tỳ Ni Đa Lưu Chi đến Quảng Châu và được một người tôn sư trọng đạo là Trần Quân Cảo, Đô Đốc Quảng Châu từ 576 đến 578, che chở. Trong thời gian lưu lại Quảng Châu Tỳ Ni đã dịch hai cuốn kinh Phật từ tiếng Phạn sang tiếng Trung Quốc. Sau khi Trần Quân Cảo qua đời thì Quảng Châu lại trở nên hỗn loạn. Chính vì thế mà năm 580 Tỳ Ni Đa Lưu Chi lại một lần nữa xuôi Nam đến Giao Châu và tìm được nơi ẩn náu tại chùa Pháp Vân ở Luy Lâu, một trong bốn ngôi chùa đã được xây từ thời Sĩ Nhiếp. Suốt 14 năm trụ trì tại chùa Pháp Vân cho đến khi ông viên tịch tại đó vào năm 594, Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã dịch thêm cuốn kinh thứ 3 và thu hút được nhiều đệ tử thọ giáo. Trong số các đệ tử mà ông quý mến nhất có nhà sư Pháp Hiển là người được ông truyền lại hết sở học mà ông lãnh hội được trước đó ở Tây Ấn Độ cũng như từ nhà sư Tăng Xán.
Sư Pháp Hiển, gốc ở Chu Diên và mang họ Đỗ. Việc Pháp Hiển có phải là hậu duệ của Đỗ Tuệ Độ, người đã cai trị Việt Nam hồi thế kỷ 4 và 5, hay không thì không rõ. Cũng cần biết rằng thiền pháp đã được đưa vào Việt Nam trước khi Tỳ Ni Đa Lưu Chi đến Giao Châu, vì trước đó Pháp Hiển đã tu tập và đạt chánh quả với Quán Duyên, một thiền sư khác cũng ở chùa Pháp Vân. Tuy nhiên Pháp Hiển lãnh hội được cái “tinh hoa và cao siêu” của thiền pháp phần chính là từ đức Tỳ Ni. Sau khi đức Tỳ Ni Đa Lưu Chi viên tịch, Pháp Hiển cho xây ngôi chùa Chung Thiên trên núi Tu, khoảng 20 dặm về phía Tây Bắc thành Luy Lâu thuộc Bắc Ninh hiện nay. Pháp Hiển Thượng Sĩ viên tịch năm 626, sau khi đã truyền thụ thiền pháp cho hơn 300 đệ từ tất cả những gì Pháp Hiển đã học được từ thiền sư Quán Duyên và nhất là từ Sư Tổ Thiền Tông Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi.
Việc du nhập Thiền Tông Phái một giáo phái mới, việc chấp nhận một vị sư phụ là người nước ngoài, việc xây dựng một ngôi chùa mới, và việc tụ tập bao nhiêu sư sãi sẽ không thể thực hiện được nếu không có một môi trường ủng hộ tôn giáo. Thêm vào đó còn cần một cộng đồng có đủ tư cách để giữ chân được một vị sư phụ đến từ nước ngoài, và đủ trưởng thành để đáp ứng và tiếp thu được sự hướng dẫn và dạy bảo của sư phụ người Ấn Độ ấy. Và trên hết cần phải có một lãnh tụ sùng đạo và có thực quyền để có thể bảo đảm điều kiện thái bình ở trong nước. Lý Phật Tử chính là một lãnh tụ như thế. Tên của ông là Phật Tử, tức con Phật, đã phần nào nói lên điều này. Thật ra chưa chắc ông đã dùng đến tên ấy cho đến mãn đời vì có giả thuyết cho rằng Lý Hữu Vinh, viên “Thứ Sử Giao Châu”, mà năm 583 đã tiến voi triều cống nhà Trần chính là Lý Phật Tử. Lý Hữu Vinh có thể là một tên khác mà Lý Phật Tử đã dùng thời gian triều cống voi nhà Trần, lý do phải dùng tên khác vì ông không muốn tiết lộ tên thật cho Trung Quốc biết vì sự bất trắc của thời đại mà cũng có thể là vì kế sách ngoại giao. Chắc vì thế mà trong cảnh hỗn loạn đánh dấu cuộc chuyển tiếp quyền hành từ nhà Trần sang nhà Tùy năm 580-590, Lý Phật Tử được sử sách Trung Quốc gọi là Lý Xuân. Lý Bí đã đặt tên nước là Vạn Xuân nên trong thời gian rối ren ấy, tên họ của Lý Phật Tử có lẽ đã được ghép với tên nước Vạn Xuân để thành Lý Xuân chăng?
Thiền Tông Phái
Với ba chục năm dài trị vì, sử liệu Việt Nam đã tôn vinh Lý Phật Tử như một người có công rất lớn trong việc làm sáng tỏ được bối cảnh chính trị thời gian đó bằng việc tạo cơ hội cho Thiền Tông Phái du nhập và phát huy tại Việt Nam khi đức Tỳ Ni Đa Lưu Chi, người khai xướng thiền phái này, du hành xuống miền Nam để tìm một môi trường thái bình yên ổn có thiện cảm với Phật Giáo. Cũng như trong các thời kỳ trước đó, mỗi khi có binh biến hoặc thay đổi triều đại ở Trung Quốc, Việt Nam lại được hưởng một thời kỳ thái bình và thịnh vượng dưới sự lãnh đạo của các lãnh tụ địa phương tài đức. Chính môi trường ủng hộ tôn giáo như đã nói ở trên đã lôi cuốn đức Tỳ Ni Đa Lưu Chi, khiến ông có thể yên tâm sáng lập được một tông phái mới ở Việt Nam mang tên ông. Phái Tỳ Ni hay còn gọi là Thiền Tông Phái là phái thứ nhất trong ba tông phái Thiền Phật Giáo chính trong lịch sử Việt Nam. Ba tông phái Phật Giáo Việt Nam này [Thiền Tông, Tịnh Tông, và Mật Tông] đã đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ độc lập sơ khai và kéo dài mãi cho tới thế kỷ 13.
việt nam khai quốc: nhà tùy xuống miền Nam (chương 4, phần 5)
Tượng phụ nữ gốm trắng (đời nhà Tùy 581-618 AD)
Quan hệ của Lý Phật Tử với triều Trần Trung Quốc bên ngoài có vẻ hữu nghị nhưng chẳng bao giờ chặt chẽ vì thế lực bấp bênh của nhà Trần. Do đó quan hệ giữa đôi bên phần chính là chỉ qua việc giao thương. Theo sử liệu thì những năm đầu thập niên 570, Thái Ngung, một quan chức nhà Trần bị trục xuất và phải lưu vong chính trị ở Giao Châu. Đồng thời, một người khác tên là Đại Hoàng lại có tên trong danh sách làm Thứ Sử Minh Châu. Hai chuyện này có thể liên quan đến cuộc viễn chinh của Nguyễn Trác năm 570, nhưng thông tin lại quá mập mờ nên không thể kết luận gì thêm. Đến những năm 580 lại có một sử liệu khác nhắc đến hai đô đốc ở Giao Châu là Dương Tấn và Dương Hữu Phổ. Có thể là có quan hệ chính thức giữa hai đô đốc này với Lý Phật Tử, nhưng lại một lần nữa vì tin tức không đủ nên không thể kết luận một cách chắc chắn được. Quá khứ cho thấy cách hành xử của Trung Quốc là luôn phong các chức tước danh dự cho những người mà không bao giờ có mặt ở miền Nam, vì thế chúng ta có cơ sở để tin rằng vì Triều Trần đang gặp khó khăn nên đã phong các hư chức này nhằm mua chuộc sự trung thành của những người này mà thôi.
Các cuộc tranh giành quyền lực ở bắc triều đã nhanh chóng đến hồi kết thúc vào năm 581 khi Dương Khiêm lập nên nhà Tùy ở Bắc Trung Quốc nhưng mãi đến năm 589 thì nhà Trần mới chịu hoàn toàn quy thuận. Thế là lần đầu tiên sau hai thế kỷ rưỡi loạn lạc và tranh chấp nội bộ, Trung Quốc lại được thống nhất. Trước khi hoàn toàn thống nhất, quân nhà Tùy đã từng tiến hành các phiêu lưu quân sự khi tìm cách vượt qua được các dãy đèo cao để vào miền Nam nhưng bị các lực lượng tàn dư của nhà Trần chặn đánh. Chỉ sau khi vua Trần bị bắt và tuyên bố quy thuận hoàn toàn thì quân Tùy mới chiếm được châu Quảng.
Sau khi một đô đốc ở miền Nam thất bại trong việc tập hợp quân đội để ủng hộ một vị hoàng thân của nhà Trần thì nhà Tùy mới củng cố được địa vị ở châu Quảng và lần hồi được các châu lân cận quy hàng, đặc biệt là sau khi sự kháng cự của Thứ Sử Định Châu ở vùng bây giờ là Quảng Tây bị hoàn toàn đè bẹp. Nhưng chẳng yên được bao thì miền Nam lại vùng lên chống cự vì vào năm 590, theo sử liệu Trung Quốc: “Biên giới cũ (miền Nam) của nhà Trần bùng lên một cuộc kháng cự lớn lao với nhiều nhóm nổi dậy cấu kết với nhau, lớn thì có quân đội hàng chục ngàn người, nhỏ cũng vài ngàn. Họ bắt cóc các quan huyện; có người bị mổ, moi ruột gan, có người bị chặt ra từng khúc và ăn thịt”. Trong số các người cầm đầu cuộc nổi dậy có ba người tự xưng là “thiên tử” và thiết lập triều đình riêng; bảy người khác, tự phong là Đại Đô Đốc và cai trị các nơi. Trong số đó sử Trung Quốc có nhắc đến Lý Xuân ở Giao Châu, và chắc chắn đó là Lý Phật Tử.
Tướng quân nhà Tùy lúc đó là Dương Tố đem một đạo quân tiến xuống miền Nam. Ông đánh “hơn 700 trận, từ miền núi xuống đến bờ biển; tấn công và phá hủy biết bao nhiêu chiến lũy, nhưng cũng có nhiều công sự ông không vượt qua nổi”. Triều đình phải gọi ông về vì sợ ông quá mệt mỏi; nhưng ông xin ở lại, viện lẽ nếu chưa dẹp yên các loạn quân thì sẽ còn loạn lớn hơn nữa nếu ông bỏ về. Sau một loạt các trận đánh mới nữa do ông chỉ huy, tình hình được tạm yên. Nhưng rồi loạn lại tái phát khi một “nhà vua man di” bao vây quân Tùy ở Quảng Châu. Một đạo quân cứu viện được gửi xuống và đám loạn quân này cuối cùng cũng bị dẹp yên”.
Không có dấu hiệu nào cho ta thấy Dương Tố tiến đến Giao Châu bao giờ vì liên tiếp trong nhiều năm nhà Tùy hoàn toàn bận rộn tái lập an ninh ở những vùng đất mà bây giờ là Quảng Đông và Quảng Tây. Trong thời gian nhà Tùy đang dần dần củng cố quyền lực ở Quảng Châu thì Lý Phật Tử, bên trong thì tiếp tục củng cố thế lực ở Giao Châu, nhưng ngoài mặt vẫn phải chính thức công nhận quyền đô hộ của nhà Tùy.
Năm 595, mặc dù thế lực nhà Tùy vẫn còn bấp bênh nhưng ảnh hưởng của họ ở vùng biên giới đã mạnh lên nhiều nên sứ giả Lâm Ấp phải lên tận triều đình nhà Tùy để bái kiến. Sau khi dẹp xong được lớp quan chức trung thành với nhà Trần cũ, nhà Tùy bắt đầu tính đến chuyện đương đầu với các lãnh tụ bản xứ “man di” phi Trung Quốc, mà họ gọi là “Li”, trong đó có Lý Phật Tử. Có nhiều lãnh tụ bản xứ phi Trung Quốc như thế được nhà Tùy tạm thời nhân nhượng vì chính sách của nhà Tùy vào thời điểm đó là dần dần tìm cách thu hút các lãnh tụ địa phương này vào vòng quỹ đạo ảnh hưởng của họ.
Năm 597, Lý Quang Sĩ, lãnh tụ người Li ở Quế Châu thuộc Quảng Tây ngày nay, lại dấy binh nổi loạn. Nhà Tùy sai một đạo quân từ Bắc xuống để hỗ trợ cho đạo quân đã được tuyển mộ ở địa phương và dẹp yên được Lý Quang Sĩ. Nhưng cuộc nổi loạn thứ nhì lại bộc phát ở Quế Châu trong cùng năm ấy. Để giải quyết tình hình nhiễu nhương này tận gốc rễ, nhà Tùy đã có một kế sách mới là cử một quan chức tên Lịnh Hồ Hi với trách nhiệm dẹp yên cuộc nổi loạn ở Quế Châu cũng như quyền tổng chỉ huy quân sự bao trùm cả miền Nam, kể cả Giao Châu nơi Lý Phật Tử đang cai trị.
Hồ Hi được giao quyền “tiền trảm hậu tấu” và mau chóng tìm cách thu phục nhân tâm dân chúng địa phương bằng cách chứng tỏ ông ta là một người khoan dung, độ lượng, và thành thật. Sử Trung Quốc chép rằng các lãnh tụ địa phương họp nhau bàn bạc rằng: “Trước kia, tất cả các quan chức [bắc triều] đều đem quân lính ra khủng bố, áp bức chúng ta. Còn ông này lại kêu gọi chúng ta thi hành lẽ phải và ra bố cáo”. Vì hành động khôn khéo như thế, nên Hồ Hi được dân chúng địa phương tín nhiệm và hợp tác. Ông cũng tập hợp những người có học trong vùng và phái họ đi thiết lập đô thị, xây dựng trường học và giáo hoá dân chúng”. Chính sách mới này của Hồ Hi có sức lôi cuốn mạnh mẽ đến nỗi nhiều lãnh tụ địa phương, trước vẫn nghiêng về phe nổi loạn, nay cũng tự kiềm chế và tôn trọng ông. Một thủ lãnh người Li là Ninh Mãnh Lực được nhiều người biết tiếng vì lòng trung thành với Hồ Hi. Triều đình nhà Tùy phải khen ngợi Hồ Hi về việc ông thu phục được lòng trung thành của cả người man di.
Quan hệ giữa Lý Phật Tử và Lịnh Hồ Hi bề ngoài thì có vẻ mực thước nhưng thật ra chỉ là qua loa chiếu lệ. Hồ Hi, tuổi đã cao nên rất muốn được về hưu trí. Hơn nữa vì đã tiêu hao bao nhiêu tâm lực vào những hành động cấp thời nên ông không còn ý muốn, hoặc tìm cách để dẫm chân lên những đặc quyền của một người đã tạo được một thế lực vững chắc ở vùng biên giới xa xôi hẻo lánh như Lý Phật Tử.
Tuy nhiên, Hồ Hi vẫn quan tâm đến việc hành chánh như việc chấn chỉnh tên gọi các châu. Nhận thấy nhiều châu, huyện ở địa phương có tên trùng nhau, Hồ Hi đã tìm cách thống nhất các tên châu huyện thuộc thẩm quyền cai quản của ông. Khi Trần Bá Tiên ở miền Nam, ông đã nâng quận Tân Xương lên cấp châu và đặt tên là châu Hưng. Năm 598, Hồ Hi đổi tên châu Hưng thành châu Phong. Cũng năm ấy, ông đổi tên châu Hoàng, được thành lập năm 535 ở bờ biển phía Bắc Giao Châu, thành châu Lục và tên của châu Đức cũng được đổi thành châu Hoan. Những tên châu mới như châu Phong, châu Lục, và châu Hoan còn tồn tại mãi cho đến khi chế độ cai trị “châu” của Trung Quốc tại miền Nam chấm dứt. Thật ra việc đổi tên các châu như thế của Hồ Hi chỉ có tính cách văn học và không ảnh hưởng gì đến việc kiểm soát thực sự những nơi đó cả. Tên của nhiều huyện cũng được thay đổi nhưng sự thay đổi có ý nghĩa nhất đối với Việt Nam sau này là việc bãi bỏ quận Vũ Bình và đặt những huyện của quận Vũ Bình dưới quyền kiếm soát của Giao Châu.
Năm 600, Hồ Hi 61 tuổi nên viết thư gửi triều đình xin về hưu. Trong thư xin về nghỉ hưu ông viết: “Sức khoẻ của hạ thần nay chỉ cho phép làm được những việc nhẹ nên rất lấy làm áy náy. Thần thường tâm nguyện cần phải chấm dứt sự cố gắng thái quá của mình… Thần là một bầy tôi đã nhiều tuổi và tự nhận mình không còn dùng được nữa… ” Ông cũng viết về sự khó khăn khi phải tìm cách thay đổi những phong tục man di của dân chúng địa phương khiến ông đau ốm, mệt mỏi, mong muốn được trở về Bắc. Triều đình bác bỏ lời tâu xin của ông và lại gửi xuống cho ông thuốc men để chữa trị và tiếp tục công việc. Chính vào thời gian này, sự đụng chạm quyền lực không thể tránh khỏi giữa Lý Phật Tử và bắc triều bắt đầu hé lộ.
Trong khi sức khỏe Hồ Hi ngày càng đi xuống thì Lý Phật Tử ngày càng tỏ thái độ độc lập bất chấp quyền uy của bắc triều hơn. Là một lãnh tụ “Li” có thế lực và bền vững nhất ở biên giới nên Lý Phật Tử lại càng bị triều đình chú ý. Năm 601, Hồ Hi chuyển một chiếu chỉ của bắc triều cho đòi Lý Phật Tử về triều trình diện. Hiểu rằng đã đến hồi quyết liệt, Lý Phật Tử đã tìm kế hoãn binh bằng cách xin để đến sang năm, sau Tết. Hồ Hi đã tự chế và chuẩn y việc Lý Phật Tử xin trì hoãn ngày về triều diện kiến vì tin rằng ông vẫn giữ được lòng trung thành của Lý Phật Tử. Chính vì việc này nên có người vu cáo về bắc triều rằng ông đã nhận hối lộ của Lý Phật Tử nên triều đình nghi ngờ ông và Lý Phật Tử đã thông đồng với nhau. Khi Lý Phật Tử công khai nổi loạn vào đầu năm 602 thì Hồ Hi bị bắt và giải về Bắc nhưng vì tuổi già sức yếu ông mất ở dọc đường.
Sau khi công khai chống lại nhà Tùy, Lý Phật Tử đã chứng tỏ sự độc lập của Giao Châu bằng cách cho dời đô về thành Cổ Loa. Kinh đô cũ ở Chu Diên thì ông giao cho tướng Lý Phổ Định trông coi, và một mặt ông sai Lý Đại Quyền, cháu ông, về giữ thành Long Biên. Vì hai thành này đều nằm ở trung tâm Giao Châu, nơi chịu ảnh hưởng nhiều nhất của Trung Quốc nên quyết định dời về Cổ Loa và Long Biên của Lý Phật Tử có lẽ là một quyết định sáng suốt và có ý nghĩa. Theo sử liệu của Việt Nam thì vùng này xưa là đất Cổ Loa và Vũ Ninh là địa điểm nằm ở phần Đông Bắc đồng bằng sông Hồng. Sử liệu Việt Nam cũng nói rằng trước kia Triệu Quang Phục đã từng cai trị từ “hai nơi” đó, tức Cổ Loa và Vũ Ninh. Giờ đến Lý Phật Tử, ông cũng muốn chứng tỏ như thế bằng cách dời đô về “hai nơi” đó: Cổ Loa và Vũ Ninh. Xét về mặt địa hình nắm được Cổ Loa và Vũ Ninh là kiểm soát được toàn bộ khu vực ăn thông với nhau về cả địa lý và văn hoá. Cả hai thành Luy Lâu và Long Biên cùng nằm trong khu vực này, kể cả những chùa chiền có liên hệ đến sư tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi và đồ đệ thân tín nhất của ông là Pháp Hiển Thượng Sĩ.
Suốt 30 năm dài kể từ lúc Triệu Quang Phục bị đánh đổ cho đến lúc Lý Phật Tử đứng lên tiếp nối chống lại nhà Tùy, vùng này, tức là trung tâm xưa nay vẫn chịu ảnh hưởng của bắc triều và được hưởng một quy chế đặc biệt khi Lý Phật Tử còn ở Ô Diên, Tây Nam sông Hồng. Cuộc viễn chinh của Nguyễn Trác năm 570 có thể đã để lại một số những thương nhân và những kẻ phiêu lưu mạo hiểm đến từ miền Bắc Trung Quốc. Những người này, và một số ít nhân dân còn trung thành với Triệu Quang Phục có thể đã không muốn Lý Phật Tử dời đô về Cổ Loa. Đồng thời, cộng đồng Phật Giáo cũng đang phát triển và có thể có người ra làm việc với chính quyền địa phương ở đó. Chưa kể đến những người của nhà Trần, rồi của nhà Tùy, có thể vẫn còn lưu trú ở đây với tư cách đại diện thương mại hay quan sát viên chính trị. Thành ra khu vực này trở thành một vùng trái độn chính trị và văn hoá mà ở đó, cộng đồng Phật Giáo phát triển mạnh dưới sự canh chừng của những lãnh tụ Việt Nam cũng như của các quan chức bắc triều. Bằng cách công khai nắm quyền kiểm soát vùng ấy, Lý Phật Tử đã chứng tỏ một cách rõ ràng ý chí độc lập tự chủ của ông.
Hành động đầu tiên của nhà Tùy là hỏi ý kiến của Dương Tố, người nổi tiếng là một chuyên gia quân sự cao cấp có nhiều hiểu biết về vùng biên giới phía Nam do cuộc chinh phạt của ông năm 590. Dương Tố tiến cử Lưu Phương và giúp lập kế hoạch viễn chinh mà trong đó ý kiến của Lưu Phương tiến xuống Giao Châu qua ngả Vân Nam dường như có ý kiến của Dương Tố. Quyết định tiến quân qua ngả Vân Nam là để tăng cường yếu tố bất ngờ vì nếu cứ đi theo con đường cổ truyền qua Quảng Tây và Quảng Đông vào Giao Châu thì mỗi bước đi đều bị Lý Phât Tử theo dõi. Lưu Phương lên đường từ Tràng An ở Bắc Trung Quốc với một đạo quân 27 tiểu đoàn. Mặc dầu là một tướng rất kỷ luật và nghiêm khắc, Lưu Phương lại được tiếng là rất bình dân với tướng sĩ của mình vì ông rất quan tâm đến những người đau ốm hay bị thương tích. Sau khi đi qua Tứ Xuyên, Lưu Phương đưa quân lên vùng cao của Vân Nam. Đến đây, viên chức coi việc dân sự ở trung tâm bị ốm nặng nên không đi được nữa. Vì muốn đến Giao Châu trước khi Lý Phật Tử biết được tin tức di chuyển của ông, nên Lưu Phương để một số quân sĩ ở lại với viên chức bị đau ấy và tiếp tục lên đường với những quân tinh nhuệ nhất. Tới đèo Đỗ Long, một vùng ẩm ướt đầm lầy, giữa vùng sông Tích và sông Chảy nơi có đặt trạm tiền phương của khoảng 2.000 quân của Lý Phật Tử, Lưu Phương vội cho quân đi đường khác để tránh, và xuôi dòng sông Chảy mà tiến một cách bất ngờ vào tận trung tâm sát nơi Lý Phật Tử đóng đô. Vì không chuẩn bị để có thể chống lại một cuộc tấn công bất ngờ như thế, Lý Phật Tử đành nghe theo lời kêu gọi đầu hàng của Lưu Phương. Lý Phật Tử bị bắt giải về kinh đô nhà Tùy và chết già ở đó. Các cố vấn và bộ hạ của ông, “những người tàn bạo và gian dối xảo quyệt” theo lời người [Trung Quốc] viết hồi ký cho Lưu Phương, đều bị đem chém để ngăn ngừa hậu hoạn.
VIỄN ẢNH THẾ KỶ VI
Trong những chương đầu, chúng ta đã theo dõi sự vươn lên của các gia đình địa phương có thế lực ở Giao Châu. Đến đầu thế kỷ 6, những gia đình có thế lực ở địa phương này hầu như đã đạt được tự chủ hoàn toàn đối với triều đình Trung Quốc. Sau đó, khi Trung Quốc có ổn định chính trị trong thời gian trị vì lâu dài của Lương Vũ Đế, thì bắc triều lại tìm cách can thiệp vào các công việc của địa phương Giao Châu và hậu quả là việc nổi dậy đòi độc lập tự chủ của Lý Bí.
Lý Bí tiêu biểu cho sự phát triển tất nhiên và hợp lý của lớp cầm quyền địa phương thời kỳ đó. Lớp cầm quyền như vậy không thể làm gì hơn được là ganh đua với chính giai cấp thống trị ở Trung Quốc. Lý Bí cũng biết xưng đế, cũng lập một niên hiệu và tổ chức một triều đình theo kiểu Trung Quốc. Mặc dù cuộc trải nghiệm này chỉ kéo dài được có vài năm, nhưng nó đã khai mở nguồn cảm hứng và khát vọng về độc lập tự chủ cho những người Việt Nam nhiều thế kỷ sau đó.
Cuộc viễn chinh của Trần Bá Tiên đã đẩy các lãnh tụ nổi dậy địa phương vào hai phía: một bên là rừng núi với người Lao và một bên là vào vùng đầm lầy. Họ Lý chạy vào rừng núi và làm cho mọi người biết đến mình vì ông đã tự xưng làm vua và lãnh đạo cuộc chiến chống Trần Bá Tiên. Họ Triệu thì không được các sử gia Trung Quốc nhắc đến mặc dù ông đã được xã hội đông dân cư ở đồng bằng che đậy trong lối đánh du kích điển hình. Triệu Quang Phục gây dựng những quan niệm về vương quyền mang bản sắc địa phương trong khi Lý Bí thì cũng xưng vương nhưng theo những lý tưởng chính trị của bắc triều.
Thời kỳ này các lãnh đạo địa phương chỉ cần bắt chước một chút các hình thức Trung Quốc cũng gây phản cảm nơi dân Việt bản xứ vì họ đã quá chán ngán cái ách thống trị của bắc triều qua bao nhiêu thế kỷ. Do đó chất xúc tác duy nhất để có thể giúp người Việt ngồi lại với nhau chính là Phật Giáo, tôn giáo đã có vị thế vững chắc ở cả Trung Quốc và Việt Nam.
Phật Giáo Việt Nam đã trải qua ba thế kỷ phát triển với những nét đặc thù của người bản xứ. Mặt khác, Phật Giáo Việt Nam đã học hỏi được rất nhiều khi tiếp xúc với Phật Giáo ở nhiều nơi, đặc biệt là với Phật Giáo Trung Quốc. Triều đại Lý Phật Tử và việc sáng lập giáo phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã đến vào lúc kết thúc một thế kỷ đặc biệt sáng tạo trong lịch sử Việt Nam như một viên gạch lót đường cho việc tiến dần tới độc lập tự chủ trong thế kỷ 10 và 11.
Thế kỷ 6 là một bài toán hóc búa cho các sử gia vì vừa phải đánh giá các nguồn sử liệu, vừa phải tìm cách giải thích những sự kiện nhiều khi quá mông lung như thế. Sự thiếu vắng những tài liệu về phía Trung Quốc buộc chúng ta phải xem xét những nguồn sử liệu Việt Nam, nhưng điều rõ rệt là sử liệu Việt Nam lại cung cấp những nguồn tin khác hẳn với nguồn sử liệu Trung Quốc. Thay vì bác bỏ các sử liệu Việt Nam vì không thể phối kiểm hoặc đối chiếu với sử liệu của Trung Quốc, chúng ta phải cố gắng tìm hiểu xem những tài liệu ấy nói gì, vì rõ ràng các sử gia Trung Quốc không biết được những gì đã diễn ra sau đó tại Việt Nam trong suốt thời gian từ lúc Trần Bá Tiên trở về Bắc vào năm 548 cho đến khi Lưu Phương đem quân tiến xuống miền Nam và đánh bại Lý Phật Tử vào năm 602.
Những thông tin được nói đến trong sử liệu Việt Nam đã được truyền lại đời này đến đời kia thêm ba thế kỷ nữa dưới ách thống trị của Trung Quốc trước khi họ được ghi lại một cách chính thức khi họ giành được độc lập thực sự vào thế kỷ thứ 10. Các sử liệu này được lưu trữ trong đền thờ các danh nhân như đền thờ Lý Phật Tử, đền thờ Triệu Quang Phục, hay những người có công với đất nước khác ở cấp thấp hơn. Những người ấy là những anh hùng liệt nữ mà tiểu sử của họ đã sống vượt thời gian và được kể lại tỉ mỉ từ qua nhiều thế hệ. Những anh hùng liệt nữ này tiêu biểu cho một tư duy bản xứ về quyền lực trong văn hoá Việt Nam.
Khi đi tìm ý nghĩa của thế kỷ 6 đối với lịch sử Việt Nam chúng ta cần phải nhìn vào cả quá khứ lẫn tương lai. Những biến cố xảy ra trong khoảng thời gian này được coi như một cánh cửa mà người Việt Nam, từ cái thời phải chịu ách thống trị của Trung Quốc, băng qua bao nhiêu thế kỷ để tiến tới thời kỳ độc lập. Lý thuyết về quyền lợi chính trị được cho là của Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử thật ra đã có từ thời văn hoá Lạc trong tiền sử. Lạc Long Quân trở về từ biển, trao cho con dân một cái móng, tượng trưng cho quyền lực của mình, hầu bảo vệ đất nước. Việc sở hữu một cái móng rồng sau đó càng làm rõ nét hơn sự nổi dậy kế tiếp của Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử. Việc chuyển cái móng từ người này qua người khác là theo một khuôn mẫu huyền tích sẵn có về hôn nhân và phản bội.
Nhìn từ một khía cạnh khác, sự tiến hoá chính trị theo 3 giai đoạn của Việt Nam trong thế kỷ 6 là một điềm báo trước cái gì nhất định sẽ phải đến vào thế kỷ 10 và 11, khi nền độc lập được thành tựu và củng cố. Giai đoạn một, các đại gia đình lớp thượng lưu mà phần lớn di cư từ miền Bắc đã nổi dậy giành độc lập, cắt đứt giây ràng buộc với bắc triều mặc dầu vẫn duy trì những nét văn hoá và chính trị theo kiểu Trung Quốc. Giai đoạn 2, lớp thượng lưu bị thách thức bởi sự xuất hiện của các lực lượng bản xứ; những lực lượng này ủng hộ những truyền thống mang nét đặc thù Việt Nam về quyền hành. Giai đoạn ba, cộng đồng Phật Giáo nổi lên như một trung gian giữa hai quan điểm ấy. Ba giai đoạn này theo thứ tự lần lượt được lập lại trong thời kỳ bắt đầu nền độc lập và tượng trưng một tiến trình thích hợp mà nhiên hậu là gạt bỏ quyền lực Trung Quốc.
Chính vì thiếu các thông tin chắc chắn về thế kỷ 6 khiến chúng ta đề cao khả năng phân tích và tổng hợp của các sử gia nhằm phản ánh được cả quá khứ lẫn tương lai và đồng thời để có thể trình tự hóa được những biến cố. Nhưng chúng ta cũng phải khẳng định rằng đã có một dạng sử theo kiểu lưu truyền trong trí óc của tập thể Việt Nam thời đó. Chúng ta cũng không thể cho rằng trong hơn một nửa thế kỷ được tự do, thoát khỏi bàn tay thống trị của Trung Quốc mà Việt Nam lại không có gì đáng ghi nhớ xảy ra. Những nguồn sử liệu Việt Nam nhất định phải phản ánh những biến cố thực sự một cách chi tiết hay ít nhất cũng phải qua những nét đại cương.
Đoạn văn được trích dưới đây để kết thúc thời kỳ mà Việt Nam đang tìm cách thoát khỏi ách thống trị của Trung Quốc sau đây đã làm hài lòng không ít những nhà đạo đức trong bao nhiêu thế kỷ. Dương Tấn, người sáng lập nhà Tùy, thường nghe kể lại số của cải khổng lồ mà Trung Quốc đã tước đoạt của nước Lâm Ấp vào năm 446, nên rất muốn một ngày nào đó được trang hoàng vương triều của ông bằng những kho tàng châu báu lấy được của vương quốc miền Nam xa lạ ấy. Sau khi Lưu Phương lấy được Giao Châu, Dương Tấn ra lệnh cho ông tiến xuống chinh phục Lâm Ấp lần nữa. Nhưng vị vua này đã không sống lâu đủ để có thể nếm thành quả của cuộc chinh phục ấy vì ông mất vào năm 604, trước khi cuộc viễn chinh bắt đầu.
Tuy nhiên đến năm 605, Lưu Phương tiến quân xuống Nam và sau trận chiến thường lệ bằng voi, đã chiếm được kinh đô Lâm Ấp ở vùng Trà Kiệu, gần Đà Nẵng ngày nay. Đúng như Trung Quốc mong đợi, chiến lợi phẩm mà họ cướp được hằng hà sa số gồm có 18 tấm bia bằng vàng để thờ làm bài vị 18 vị vua tiền nhiệm của người Lâm Ấp, một thư viện Phật Giáo gồm 1350 bộ kinh viết bằng chữ địa phương và một dàn nhạc của một vương quốc ở lưu vực sông Cửu Long.
Sau khi dựng tấm bia kỷ niệm chiến thắng của mình, Lưu Phương kéo quân về, mang theo toàn bộ chiến lợi phẩm lấy được. Nhưng dọc đường, bệnh dịch hoành hành đã tàn sát hết đạo quân Tùy và thần Chết cũng không tha cả Lưu Phương. Định mệnh dường như đã trừng phạt đích đáng một cuộc chinh phạt vô cớ mà động lực chính chỉ là lòng tham vô đáy.
Lời phê bình có lẽ sâu sắc và thấm thía nhất về chuyện động binh vì tham lam này là của vị vua nho học uyên bác nhưng không có thực quyền của Việt Nam là Tự Đức (1847-1883) vì lúc đó giang sơn đất nước ông đang bị người Pháp chiếm, vua Tự Đức viết:
“Quân đội là một dụng cụ tàn ác mà, cực chẳng đã, người khôn buộc phải dùng đến để chống lại bạo ngược hay để bảo đảm cho dân chúng được sống trong cảnh thái bình. Cứ xét như thế thì làm sao người ta có thể cho phép mình chạy theo những ham muốn dơ bẩn về của cải, làm sao có thể cho phép mình một sự thoải mái mà gây ra cảnh thương tâm đau khổ cho người khác phải chịu, và tàn phá sức mạnh của cả một quốc gia? Cổ nhân đã nói: “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Tưởng không cần phải giải thích thêm về câu này, bằng chứng hùng hồn là việc tướng quân nhà Tùy [người đem quân đi cướp bóc Lâm Ấp] đã không tránh khỏi cái chết và cả triều đại nhà Tùy rồi cũng sụp đổ sau đấy không bao lâu. Đây là một bài học có giá trị cho các sĩ tử suy ngẫm về cách sử dụng quân đội sao cho đích đáng”.
Phản ứng của vua Tự Đức hết sức rõ ràng và nghiêm khắc. Có lẽ ông đã hiểu rất rõ rằng chính vì lòng tham lam của Trung Quốc cũng như của Pháp đã gây ra bao nhiêu đau khổ cho dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử. Lời lên án uyên thâm của vua Tự Đức đã trở thành “kinh nhật tụng” cho giới sĩ phu Việt Nam khi họ lui về ở ẩn đọc sách [thay vì nổi dậy] trong thế kỷ 19 trước ách xâm lược của thực dân Pháp. Lời lên án này không phải không có căn cứ nếu chúng ta nhìn lại lịch sử Việt Nam. Điều mà vua Tự Đức phê phán về cuộc chinh phục Lâm Ấp của nhà Tùy cũng được phô bày rõ ràng trong chính sách đô hộ của các triều đại Trung Quốc trước đó đối với Việt Nam, và cho cả chính sách thuộc địa của nước Pháp vào chính thời ông đang sống.
Mặc dù hứa hẹn về một nền độc lập của Việt Nam thế kỷ 6 đã bị mai một bởi việc hồi sinh của quyền lực Trung Quốc. Đối với Trung Quốc, đây là việc làm sống lại nền văn hóa Đại Hán bằng việc đi khai hóa các dân “man di mọi rợ” ở phương Nam. Đối với Việt Nam thì đó lại là thời kỳ mà sự thèm khát ngàn đời của Trung Quốc đối với phương Nam lại vừa sống dậy. Về lâu dài về dài các thử thách trong việc mưu tìm độc lập tự chủ của người Việt, mặc dù bất thành, trong thế kỷ 6 vẫn được bảo tồn và tiếp nối. Tuy nhiên các truyền thống tốt đẹp này thường không được kế thừa bởi các tầng lớp thượng lưu và giới sĩ phu vì, như vua Tự Đức, họ thích nghiền ngẫm kho sách [lý thuyết] hơn là quân đội [các giá trị thực tiễn] mà họ đã được thừa hưởng từ những cuộc đấu tranh giành độc lập của các anh hùng liệt nữ vậy.