LTS: Những bài vở trên đây không nhất thiết là quan điểm của diễn đàn. Mục đích để đóng góp tài liệu tham khảo, tài liệu lịch sử làm phong phú thêm trí tuệ, làm sáng tỏ sự thật, vạch trần tội ác tập đoàn việt gian Cộng Sản. tội ác tên Giặc Hồ Chí Minh và bè lũ tay sai việt gian bán nước đã cố tình bưng bít, dấu kín, xuyên tạc lịch sử Việt Nam, giết hàng chục triệu người dân vô tội, bỏ tù hàng triệu quân cán chính VNCH, bán đất dâng biển, làm nô lê cho Tàu, Nga..v.v..
" Hiểu một thời đại nghĩa là phải lấy con tâm và con mắt lịch sử, nghiệm qua các thời đại để mà đứng trên nền tảng với điều kiện đó để mà hiểu thời đại đó.""[HH-trang45]
" Để phục hưng và phục hoạt, phải lấy một con mắt nghiêm ngặt Việt, đứng siêu nhiên trên lập trường Việt, thi thiết bằng những chính sách và kế hoạch siêu nhiên và nghiêm ngặt, có một thái độ nghiêm ngặt và siêu nhiên lịch sử Việt."[HH-trang45]



HOME-Tro Ve Trang Chinh




Friday, April 30, 2010

RFA-Chiến tranh Việt Nam kết thúc sau bắt tay giữa hai siêu cường?Nixon năm 1972

Chiến tranh Việt Nam kết thúc sau bắt tay giữa hai siêu cường?

2010-04-29

Chiến tranh Việt Nam đã lùi vào quá khứ 35 năm, thế nhưng trong những năm qua, rất nhiều người Việt và cả người Mỹ vẫn còn nhiều thắc mắc liên quan tới cuộc chiến này.

Photo courtesy Nixonfoundation.org

Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tại Bắc Kinh vào năm 1972.

Để cùng nhau ôn lại lịch sử liên quan tới cuộc chiến, nhất là chuyến đi của Tổng thống Nixon đến Trung Quốc cách nay gần 40 năm, nơi đó hai bên Mỹ - Trung đã ra Thông cáo Thượng Hải và rồi Hiệp định Paris được ký kết, dẫn đến việc Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam và tiếp theo là sự sụp đổ của Sài Gòn 35 năm trước.

Quan điểm thay đổi

Như chúng ta đã biết, thuyết domino về Chủ nghĩa Cộng sản có từ thời Tổng thống Eisenhower. Thuyết này cho rằng khi phong trào cộng sản ở Trung Quốc thành công, nếu Hoa kỳ không can thiệp để phe cộng sản ở Bắc Việt chiếm miền Nam Việt Nam, sẽ làm cho các nước Đông Dương khác rơi vào tay cộng sản, đe dọa các nước còn lại trong khu vực như: Malaysia, Philippines, Nhật Bản, Úc...

Nếu Trung Quốc không phải là nước cộng sản, chúng ta đã không có chiến tranh ở Triều Tiên. Nếu Trung Quốc không phải là nước cộng sản, chúng ta không có cuộc chiến ở Đông Dương.

Tổng thống Nixon

Ông Richard Nixon là người ủng hộ thuyết domino và là một trong những nhân vật nổi tiếng chống cộng. Đó là một trong những lý do ông được chọn làm ứng cử viên phó Tổng thống, đứng trong liên danh với ông Eisenhower, ứng cử viên Tổng thống, và liên danh này đã đắc cử.

Trong thập niên 50s, khi còn là Phó Tổng thống, ông Nixon đã từng lên tiếng phản đối Trung Quốc mạnh mẽ, vì nước này là cộng sản. Ông đã nói: “Chúng ta có thể thấy Trung Quốc là nguyên nhân cơ bản của tất cả mọi rắc rối của chúng ta ở châu Á. Nếu Trung Quốc không phải là nước cộng sản, chúng ta đã không có chiến tranh ở Triều Tiên. Nếu Trung Quốc không phải là nước cộng sản, chúng ta không có cuộc chiến ở Đông Dương”.

Thế nhưng, năm 1969, khi trở thành Tổng thống, ông Nixon đã thay đổi chính sách về cộng sản. Có lẽ do sức ép của người dân Mỹ muốn kết thúc chiến tranh Việt Nam, cũng như nhận thức của Hoa Kỳ về giá trị chiến lược trong việc cải thiện mối quan hệ với Trung Quốc, đã làm cho cho Tổng thống Nixon thay đổi. Trong một thông điệp gửi đến người dân Mỹ liên quan tới chiến tranh Việt Nam, ngày 7 tháng 4 năm 1971, Tổng thống Nixon đã nói:

Vấn đề rất đơn giản đó là như thế này: chúng ta sẽ rời khỏi Việt Nam theo cách mà - bởi những hành động của chính chúng ta - cố ý chuyển giao đất nước cho những người Cộng sản? Hay là chúng ta sẽ rời khỏi theo cách, cho người miền Nam Việt Nam một cơ hội hợp lý để tồn tại như là những người tự do? Kế hoạch của tôi sẽ chấm dứt sự tham gia của người Mỹ theo cách sẽ cung cấp cho miền Nam cơ hội đó. Và một kế hoạch khác sẽ kết thúc nó một cách vội vàng và trao chiến thắng cho những người Cộng sản”.

Và chuyến thăm lịch sử của Tổng thống Nixon năm 1972, đã giúp Hoa Kỳ chấm dứt sự tham gia trong chiến tranh Việt Nam, theo một trong hai cách mà Tổng thống Nixon đã đưa ra, cũng có thể không phải là cách mà Tổng thống Nixon, Hoa Kỳ và nhiều người Việt mong đợi. Thế nhưng chuyến đi này của Tổng thống Nixon đã đã làm thay đổi cán cân quyền lực toàn cầu cũng như lập ra một trật tự thế giới mới.

Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai  tại Bắc Kinh hôm 25-2-1972. Photo courtesy National Archives &  Records Administration.
Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tại Bắc Kinh hôm 25-2-1972. Photo courtesy National Archives & Records Administration.

Trung - Mỹ bắt tay?

Cũng xin nhắc lại rằng, do có những mâu thuẫn với Liên Xô, một nước XHCN anh em của Trung Quốc, và nhất là sau lần đụng độ quân sự ở biên giới giữa hai nước hồi tháng 8 năm 1969, dẫn đến việc Liên Xô đưa ra các kế hoạch chi tiết cho một cuộc tấn công hạt nhân vào Trung Quốc, nên Mao Trạch Đông lo ngại và muốn tìm một sự hòa giải với Hoa Kỳ để Trung Quốc rảnh tay mà đối phó với Liên Xô.

Phía Hoa Kỳ cũng muốn cải thiện quan hệ với Trung Quốc, giúp kết thúc chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến đã gây chia rẽ nước Mỹ, nên tháng 7 năm 1971, ông Nixon đã phái ông Henry Kissinger, Cố vấn An ninh Quốc gia, bí mật đến Trung Quốc để sắp xếp cho chuyến viếng thăm của Tổng thống Nixon đến nước này. Và rồi cả thế giới đã bị sốc khi biết rằng Tổng thống Hoa Kỳ có ý định đến thăm Trung Quốc vào năm sau, 1972.

Là chúng ta sẽ rời khỏi theo cách, cho người miền Nam Việt Nam một cơ hội hợp lý để tồn tại như là những người tự do?

Tổng thống Nixon

Mặc dù Trung Quốc rất muốn thiết lập quan hệ với Hoa Kỳ với lý do đã nêu trên, thế nhưng Trung Quốc cũng muốn ông Nixon phải bày tỏ trong tuyên bố của mình rằng, Tổng thống Hoa Kỳ “rất thèm” được đến thăm Trung Quốc, và rằng Trung Quốc rất “độ lượng” khi để ông Nixon đến thăm. Trong một lần trả lời phỏng vấn, ông Nixon nói:

Tuyên bố bây giờ tôi phải đọc, đang được ban hành ở Bắc Kinh cũng như ở Hoa Kỳ rằng: Được biết Tổng thống Nixon đã bày tỏ mong muốn đến thăm nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Thủ tướng Chu Ân Lai, thay mặt Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, mở lời mời Tổng thống Nixon đến thăm Trung Quốc vào một ngày thích hợp trước tháng 5 năm 1972. Tổng thống Nixon đã nhận lời với niềm hân hạnh”.

Thông cáo Thượng Hải

Tổng thống Richard Nixon thăm quân đội Mỹ tại Việt Nam năm 1970.  AFP PHOTO.
Tổng thống Richard Nixon thăm quân đội Mỹ tại Việt Nam năm 1970. AFP PHOTO.
Trước chuyến đi của Tổng thống Nixon là chuyến đi của ông Kissinger đến Trung Quốc vào mùa hè năm 1971, tại đó ông Kissinger cũng đã cùng với ông Chu Ân Lai, Thủ tướng Trung Quốc, đưa ra bản thảo về Thông cáo Thượng Hải. Hai bên đã nhận ra rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc có nhiều điểm không thể thỏa hiệp, cho nên Chu Ân Lai đề nghị lập một bản thông cáo không chính thức và hai bên chấp nhận những điểm bất đồng, mỗi bên nêu rõ quan điểm của mình trong các phần riêng biệt khi cần thiết.

Và sau đó, tuần lễ cuối cùng của tháng 2 năm 1972, một chuyến viếng thăm lịch sử kéo dài một tuần của Tổng thống Nixon ở Trung Quốc. Vào ngày cuối cùng của chuyến viếng thăm này, ngày 28 tháng 2, tại Thượng Hải, Hoa Kỳ và Trung Quốc đã ban hành một thông cáo chung, còn gọi là Thông cáo Thượng Hải.

Những điểm chính trong thông cáo Thượng Hải là, hai nước cam kết đi đến bình thường hóa, sẽ cùng nhau hợp tác trao đổi trên nhiều lĩnh vực, Hoa Kỳ công nhận Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc và hai bên cam kết giải quyết vấn đề Đông Dương trong đó có chiến tranh Việt Nam.

Trong thông cáo cũng có một đoạn “ám chỉ” Liên Xô khi tuyên bố rằng, hai quốc gia Hoa Kỳ và Trung Quốc “không nước nào được phép tìm kiếm quyền bá chủ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương và mỗi nước chống lại các nỗ lực của bất kỳ nước nào hoặc nhóm các nước khác nhằm thiết lập quyền bá chủ”.

Một trong những điểm chính đã nêu trong Thông cáo Thượng Hải là quan điểm của hai nước về sự có mặt của quân đội Hoa Kỳ ở Đông Dương, trong đó có Việt Nam. Thông cáo nêu rõ, phía Trung Quốc ủng hộ hoàn toàn “Đề nghị 7 điểm” của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, do bà Nguyễn Thị Bình đưa ra trong lần đàm phán ngày 1 tháng 7 năm 1971.

Trong “Đề nghị 7 điểm” này, bà Bình kêu gọi Mỹ đưa ra thời hạn rút toàn bộ lực lượng Hoa Kỳ khỏi miền Nam và xóa bỏ chính phủ Việt Nam Cộng hòa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Và rồi, như mọi người đều biết, Hiệp định Paris đã được ký gần một năm sau đó. Chiến tranh Việt Nam cũng đã kết thúc cách nay 35 năm, như là một thỏa thuận giữa các nước lớn với nhau.



Thursday, April 29, 2010

Keith Weller Taylor-việt nam khai quốc CV (1-3)

Keith Weller Taylor-việt nam khai quốc CV (1-3)

việt nam khai quốc: an nam đô hộ phủ (chương 5, phần 1)


5. AN NAM ĐÔ HỘ PHỦ

KHÂU HOÀ

Cũng như triều đại Tấn 800 năm trước đó, triều đại nhà Tùy có những dấu hiệu báo trước sẽ là một vương triều lớn. Giết chính cha mình là Tùy Văn Đế để tiếm ngôi vào năm 604 Tùy Dạng Đế đã làm kiệt quệ đế quốc non trẻ bằng những cuộc chiến tranh, những dự án xây dựng tốn kém, và bằng một lối sống vương giả xa hoa phù phiếm vô độ. Năm 615, Tùy Dạng Đế suýt nữa thì bị người Đột Quyết (tổ tiên của người Thổ ngày nay) bắt sống. Sau đó quyền hành của ông bị suy sụp và đế quốc nhà Tùy bị chia năm xẻ bảy thành những cát cứ. Năm 618, Lý Uyên cướp được kinh đô Trường Sa và lập triều đại nhà Đường. Cũng như trong các kỷ nguyên trước đó, mỗi khi có một triều đình sụp đổ và một triều đại khác lên thay ở Trung Quốc là Việt Nam lại hưởng thái bình được ít lâu dưới tài lãnh đạo của các thủ lĩnh địa phương. Người đem lại thái bình cho miền biên giới phía nam lúc đó chính là Khâu Hoà.

Ra đời vào năm 551 ở Lạc Dương, khi còn niên thiếu Khâu Hoà theo thân phụ, một tướng quân, luyện rèn võ nghệ nhưng khi trưởng thành, ông quan tâm nhiều hơn đến hành chánh dân sự và bắt đầu sự nghiệp dưới triều nhà Châu. Dưới triều đại nhà Tùy, Khâu Hòa được bổ nhiệm cai quản nhiều huyện ở miền Hoa Bắc nơi ít có rối ren, loạn lạc vì ông nổi tiếng là người có đức tính khoan dung độ lượng.

Cuối thời trị vì của Tùy Dạng Đế, khắp miền Nam dân chúng nổi lên chống lại những hành động bóc lột áp bức của các thái thú. Tình hình chỉ yên ổn trở lại khi triều đình phương Bắc tức tốc gửi những quan chức, được coi là lương thiện và thanh liêm, đến thay thế các thái thú tham ô. Trong những quan chức nhà Tùy mới đến miền Nam nhậm chức này có Khâu Hoà, mặc dầu lúc đó ông đã bước vào tuổi lục tuần.

Từ năm 604 nhà Tùy đã hạ quy chế tất cả các châu xuống cấp quận do đó lãnh thổ Việt Nam được chia thành ba quận nằm gọn trong một châu. Quận Giao Chỉ gồm toàn thể đồng bằng sông Hồng; châu Ái lại một lần nữa được gọi là Cửu Châu; và châu Đức mà năm 598 được Lịnh Hồ Hi cải tên là châu Hoan, nay trở thành quận Nhật Nam. Quá về phía nam là ba quận ngoại vi được thành lập từ những vùng đất vừa chiếm được của Lâm Ấp vào năm 605.

Bảng 3: HỒ SƠ HÀNH CHÁNH ĐỜI TẤN, TỐNG VÀ TỀ
Số Huyện Trong Mỗi Châu TẤN (265-419) TỐNG (420-478) TỀ (479-501)
Quảng Châu 68 136 188
Việt Châu Không có 7 55
Giao Châu 53 53 52
Số Hộ Dân Tính Theo Từng Châu
Quảng Châu 43.120 49.726 Không có
Việt Châu Không có 938 Không có
Giao Châu 25.600 10.453 Không có
Số Hộ Dân Tính Trên Các Quận Của Riêng Giao Châu
Hợp Phố 2.000 Không có Không có
Giao Chỉ 12.000 4.233 Không có
Tân Xương 3.000 Không có Không có
Vũ Bình 5.000 1.490 Không có
Cửu Chân 3.000 2.328 Không có
Cửu Đức Không có 809 Không có
Nhật Nam 600 402 Không có

Tài liệu: Tấn Thư: trang 15; 8b; 9b; Tống Thư: 38. 23b-44b; Nam Tề Thư: 14-20a 28b.

Bảng 4. THỐNG KÊ DÂN SỐ GIAO CHÂU ĐỜI NHÀ TÙY
Quận Số Hộ Dân
Giao Chỉ (đồng bằng sông Hồng) 30.516
Cửu Châu (đồng bằng sông Mã) 16.135
Nhật Nam (đồng bằng sông Cả) 9.915
Tổng Cộng: 56.566

Tài liệu: Tùy thư, 31, 12b-13a

Mặc dầu chẳng tồn tại được hết đời nhà Tùy, cơ cấu hành chánh này giúp chúng ta hiểu được rằng các số liệu trong bảng thống kê dân số, như được trình bày trong bảng 4, là nhằm giúp nhà Tùy thu thuế vào thời này. So sánh các con số trong bảng 3 (Chương 3) với bảng 4 cho thấy nhà Tùy đã cai trị miền Nam tương đối hiệu quả hơn. Mặc dù chi tiết về việc nhà Tùy đã cai trị miền Nam thế nào vẫn còn nhiều nghi vấn nhưng điều chắc chắn rằng nhà Tùy đã tìm mọi cách để đàn áp những đại gia đình địa chủ địa phương. Số hộ khầu gia tăng trong bảng 4 chứng tỏ các cố gắng của nhà Tùy trong việc thực thi chính sách "bình đẳng" ruộng đất ở Việt Nam. Mục tiêu chính của công cuộc cải cách ruộng đất này là chia đất cho những người nông dân chịu đóng thuế cho nhà Tùy để họ được có tên trong sổ hộ khẩu. Còn đối với những người không được chia đất thì họ sẽ trở thành những tá điền (không có tên trong sổ hộ khầu) và phải đi làm công cho những địa chủ.

Sử liệu duy nhất còn tồn tại cho thấy rằng chính sách sưu cao thuế nặng của nhà Tùy, qua việc ban chức tước đặc biệt cho các "lãnh tụ" địa phương là những người sẵn sàng tiếp tay nhà Tùy vơ vét các phẩm vật quý giá như ngọc trai, chim trả, ngà voi, sừng tê giác như một hình thức thu thuế gián tiếp ở miền Nam.

Trong khi trung tâm hành chánh của Giao Chỉ nằm ở Long Biên thì một đô đốc của Giao Châu lại đóng bản dinh ở Tống Bình gần Hà nội ngay nay với quyền hành bao trùm khắp miền biên giới [mà theo sử Trung Quốc là],

"để kiểm soát bọn man di từ tất cả những tiểu quốc phía nam, phía tây Giao Châu, và những cư dân trên các hòn đảo ở ngoài biển lớn… thường đến bằng tàu qua những hải trình rất dài… đem tới những hàng hoá qua ngả Giao Chỉ như họ đã từng làm từ thời Hán Vũ Đế…"

Sách chép rằng khi Khâu Hoà đến Giao Chỉ, ông "vỗ về tất cả những anh hùng địa phương và thu phục được sự tin cậy của bọn man di; tất cả những tiểu quốc ở phía tây Lâm Ấp đều đem đến nộp cho ông những phẩm vật quý hiếm như hạt trai, sừng tê giác, vàng và những đồ quý xứng đáng với một vị hoàng đế". Sự thành công của Khâu Hoà trong cách cai trị khiến ông được nhắc đến sau này như là một vị tổng quản nhân từ và đồng thời cũng phản ánh thế giới hàng hải phồn thịnh ở miền biển phía nam nơi từng đem lại thịnh vượng và chiếm ưu thế trong nền kinh tế địa phương từ thời Sĩ Nhiếp.

Khi nhà Tùy không còn kiểm soát được đế quốc của mình nữa thì các lãnh tụ địa phương lại bắt đầu nổi lên. Khởi đầu là Tiêu Thiết, hậu duệ nhà Lương ở lưu vực sông Dương Tử, tự xưng vương và thiết lập triều đình riêng. Kế đến là Lâm Sĩ Hoàng, nổi lên ở phía Đông Trung Quốc, cướp ngôi vua và tập hợp một số thuộc hạ cùng chung mộng đế vương mà trong đó có một người tên là Phùng Áng.

Có cha từng theo quân nhà Tùy xuôi nam và mẹ là một phụ nữ địa phương có quê quán bây giờ là vùng bờ biển Quảng Đông, Phùng Áng khi trưởng thành đã từng làm quan trấn nhiệm ở miền Tây Bắc Trung Quốc trong thời nhà Tùy. Khi nhà Tùy sụp đổ Phùng Áng quay về quê mẹ và kiểm soát được vùng Quảng Đông và phía đông Quảng Tây ngày nay. Còn miền tây Quảng Tây thì nằm dưới quyền kiểm soát của Ninh Trường Chân là người theo phe Tiêu Thiết.

Khâu Hoà đứng bên ngoài tất cả những quan hệ chính trị kể trên. Khi các sứ giả của cả Tiêu Thiết lẫn Lâm Sĩ Hoàng đến yêu cầu ông hợp tác, Khâu Hoà đều từ chối, vì trong thâm tâm ông vẫn chưa muốn tin rằng nhà Tùy đã thật sự chấm dứt. Tiếng đồn vì sự giàu có của Khâu Hòa khiến miền Bắc thèm muốn vì thế Tiêu Thiết ra lệnh cho Ninh Trường Chân đem quân chinh phạt miền Nam. Lúc đầu Khâu Hòa đã chuẩn bị quy thuận, nhưng một quan chức của ông là Cao Sĩ Liên lên tiếng khuyên ông rằng: "Mặc dầu Ninh Trường Chân đông quân, nhưng y phải đi đường xa mà đến, nên xét về quân lương tiếp liệu thì y không thể ở lâu được. Trong khi đó, chúng ta có binh sĩ được huấn luyện, có pháo lũy phòng thủ tốt, và có đầy đủ lương thực thì cớ sao lại phải đầu hàng khi chỉ mới nghe thấy lời đồn đại?"

Cho là phải, Khâu Hoà bèn giao cho Cao Sĩ Liên tổ chức phòng thủ, và quả nhiên quân đội Ninh Trường Chân đã bị đánh bại dễ dàng. Mãi đến khi Khâu Hoà biết được rằng Tùy Dạng Đế đã bị giết vào năm 617 và triều đại nhà Tùy đã thực sự chấm dứt với việc thành lập nhà Đường vào năm 618 thì ông mới chịu quy phục Tiêu Thiết.

Nhưng đến năm 622, khi Tiêu Thiết bị nhà Đường đánh bại thì Khâu Hoà lập tức xin quy thuận triều Đường và được bổ nhiệm ngay làm Đại Tổng Quản Giao Châu cùng với việc Cao Sĩ Liên thân hành lên tận kinh đô nhà Đường để chính thức hoá việc quy phục của Khâu Hoà. Lúc này Khâu Hòa đã 71 tuổi nên chẳng lâu sau ông trở về miền Bắc Trung Quốc và hưởng già ở đó cho đến năm 86 tuổi.

Khâu Hoà đã đem Việt Nam đến với nhà Đường trong những điều kiện hoà bình và thịnh vượng. Nhờ đó mà các tổng quản và thứ sử sau này của nhà Đường có được nền móng tốt để tiếp tục củng cố sự cai trị ở miền Nam. Nhà Đường, với thái độ hòa hoãn lúc ban đầu, đã không phải đương đầu với một dân tộc Việt lộ vẻ thù hằn khi bị chinh phục, một dân tộc đang thịnh vượng, có trình độ văn hoá cao và một hệ thống chính trị ổn định đủ để trở thành chư hầu của đế quốc một cách êm thấm mà không cần dùng đến vũ lực.

Vai trò của Khâu Hoà ở Việt Nam từ lúc nhà Tùy tan rã cho đến khi nhà Đường lên ngôi khác hẳn với cái khuôn khổ cũ trước đó khi các gia đình địa phương thường nắm thế chủ động. Có nhiều lý do để tin rằng nhà Tùy đã vô hiệu hoá được giới lãnh đạo địa phương ở miền Nam sau khi Lý Phật Tử quy hàng. Mặc dù không có số liệu chính thức, rất nhiều bộ hạ của Lý Phật Tử đã bị nhà Tùy giết, và không ít lãnh đạo địa phương đã phải cúi đầu quy thuận với những hứa hẹn đi đôi với những lời đe dọa. Điểm cần chú ý ở đây là sau những tranh chấp quyền lực và suy yếu vì chia năm xẻ bảy, Trung Quốc lại một lần nữa thống nhất, lại phô trương thanh thế và bành trướng sức mạnh như họ đã từng làm trong quá khứ với các lân bang. Đấy là lúc Trung Quốc bắt đầu một thời đại mới.

TỔ CHỨC ĐÔ HỘ PHỦ

Năm 622, nhà Đường bắt đầu phân chia lãnh thổ Việt Nam ra thành nhiều châu nhỏ dưới quyền kiểm soát của hai Tổng Quản Phủ. Tổng Quản Phủ quan trọng thứ nhất được đặt ở vùng phụ cận Hà Nội bây giờ với quyền hành bao trùm 12 châu (Giao, Phong, Chi, Ái, Hoan, Diễn, Trường, Lục, Thang, Võ An, Võ Nga, và Phúc Lộc) gồm 59 huyện trong đồng bằng sông Hồng và sông Mã. Tổng Quản Phủ quan trọng thứ hai được đặt ở đồng bằng sông Cả với quyền hành bao gồm các châu ở vùng biên giới cực nam. Mặc dù châu Ái nằm dưới quyền Tổng Quản Phủ phía bắc, nó vẫn chiếm một địa vị ưu việt so với các châu khác trong đồng bằng sông Mã.

Việc gia tăng con số các châu lúc ban đầu dường như nhắm mục đích xác định các vùng tập trung dân cư trọng yếu nhưng những năm kế tiếp, tổ chức hành chánh này lại thay đổi liên miên. Địa vị của các quan thứ sử nhà Đường đứng đầu mỗi châu được củng cố rất nhiều vì càng ngày họ càng quen thuộc với dân chúng và thông thạo tình hình địa phương.

Đầu năm 627, để đáp ứng những đòi hỏi về cải cách hành chánh theo lệnh của tân Hoàng Đế Đường Thái Tôn, con số các châu lại bị giảm thiểu hơn nữa. Năm 628, các Tổng Quản Phủ được đổi thành các Đô Đốc Phủ, dưới quyền các Đô Đốc, một hình thức cai trị đối với các khu vực nằm ngoài lãnh thổ chính quốc. Trong 50 năm sau đó, một cơ cấu phát triển hành chánh mới đã được nhà Đường thực nghiệm tại miền Nam mà đỉnh cao là việc Đường Cao Tông lấy lại tên An Nam Đô Hộ Phủ vào năm 679.

Các đô hộ phủ được đặt dưới quyền cai trị của các Kinh Lược Sứ mà sau đổi thành Tiết Độ Sứ, một chức vụ hành chánh nhà Đường đặt ra để cai trị các dân tộc "man di" hay phi Trung Quốc ở các vùng biên giới. Việc thành lập An Nam Đô Hộ Phủ phần nào phản ảnh mối quan ngại về việc kiểm soát chặt chẽ việc cai trị ở vùng biên giới sau khi nhà Đường bị người Tây Tạng đánh cho một trận tan tác tại Trung Á vào năm 678.

An Nam Đô Hộ Phủ là một trong số bốn vùng đất bị đặt dưới ách đô hộ của Trung Quốc như: An Tây Đô Hộ Phủ ở lưu vực sông Tarim; An Bắc Đô Hộ Phủ ở Mông Cổ; và An Đông Đô Hộ Phủ ở biên giới Cao Ly tức Triều Tiên bây giờ.

Hình thức và con số những châu đặt dưới quyền đô hộ phủ thỉnh thoảng lại thay đổi, nhưng có 8 châu đáng được coi là quan trọng nhất vì sau này 8 châu này sẽ trở thành lãnh thổ trọng tâm của một nước Việt Nam độc lập.

Biên giới phía nam được tính từ châu Hoan, nằm trong vùng hạ lưu sông Cả. Châu Hoan còn có thẩm quyền trên một số những “châu độn” được lập ra để "kiềm chế" những dân bộ lạc ở các vùng núi lân cận. Những "châu độn" này chỉ cao hơn các chức tước nhà Đường ban cho các thủ lãnh bộ lạc ở trong núi một chút để nhằm khuyến khích họ hợp tác.

Cuộc cải cách hành chánh năm 627 không trực tiếp tác động đến châu Hoan, ngoại trừ việc thay đổi tên của vài châu và bãi bỏ hai huyện. Ngược lại với tiến độ cải cách hành chánh ở phía bắc khi con số các châu bị giảm bớt, việc cải cách hành chánh theo lối nhà Đường ở châu Hoan tiến hành chậm hơn vì phải mất nhiều thì giờ phân định ranh giới đối với những châu mới được thành lập sau năm 627.

Năm 628, sách chép là Lâm Ấp được "vỗ về và an ủi" dẫn đến việc thành lập châu Kinh ở biên giới phía nam của châu Hoan. Năm 635, Lâm Ấp lại được "vỗ về và an ủy" để lập thêm một châu nữa là châu Lam cũng ở phía nam châu Hoan. Hai châu mới ở vùng biên giới này đều nằm ở vùng giáp ranh rặng Hoành Sơn. Sau đó hai châu này bị bãi bỏ vào cuối thế kỷ vì dường như việc thành lập hai châu này chỉ là một bước thử nghiệm để quan sát và nghiên cứu vùng biên giới Lâm Ấp mà thôi.

Chỉ mãi sau này thì việc cải cách hành chánh vùng biên giới Lâm Ấp mới được chính thức hóa bằng việc thành lập châu Phúc Lộc từ khu vực mà những người "Lao không văn minh" đã bị di dời vào thế kỷ thứ 6 trước đó. Đầu năm 683, những người “Lao không văn minh” này lại được nhà Tùy "chăm chút và vỗ về" với kết quả là việc kết hợp huyện Phúc Lộc vào châu Đường Lâm hiện có và lấy tên là châu Phúc Lộc vào năm 669. Châu Đường Lâm, được lập không lâu trước đó, bằng cách nhập huyện Đường Lâm vào một huyện cũ khác, có từ thời nhà Tùy khi được tách ra khỏi châu Hoan. Với đà bành trướng như thế nhà Đường đã dần dần thiết lập được sự kiểm soát vững chắc trên toàn vùng duyên hải chiến lược này.

Năm 635, châu Sơn, gồm một tiền đồn quân sự với dân số khoảng trên 5.000 người, được thành lập dọc theo thượng lưu sông Cả, ven vùng đồng bằng Trấn Ninh (cánh đồng Chum). Châu Diễn, nguyên thủy nằm ở dọc bờ biển bắc châu Hoan, nhưng vào khoảng năm 650 thì bị bãi bỏ để sát nhập vào châu Hoan. Vào khoảng năm 764, châu Diễn được tái lập thành một châu riêng biệt và châu Sơn lại bị bãi bỏ để nhập vào châu Diễn. Nhiên hậu châu Diễn gồm có vùng duyên hải phía bắc châu Hoan với toàn bộ vùng thượng lưu sông Cả.

Năm 622 châu Ái là một trong số 8 châu được lập tại các vùng sâu, vùng xa của đồng bằng sông Mã. Năm 627, tám châu này được kết hợp lại thành 2 châu; và đến năm 636, châu Ái lại nhập nốt những châu còn lại. Nằm ở vị trí chính giữa Đô Hộ Phủ, Châu Ái không phải chịp áp lực hoàn toàn của Trung Quốc như vùng đồng bằng sông Hồng ở phía bắc; đồng thời, lại có châu Hoan giúp chống đỡ những áp lực của những châu ở ngoại vi từ biên giới phía nam. Điều này khiến cho châu Ái gạn lọc được những tinh túy tiếp thu được từ bên ngoài. Và có lẽ đó cũng là lý do tại sao châu Ái lại nổi lên ở thế kỷ 10 như là một trung tâm gốc rễ và lâu bền nhất của các hoạt động chính trị đưa đến độc lập cho Việt Nam.

Châu Trường nằm dọc theo vùng đất cao ở phía bắc châu Ái và bao gồm vùng cực nam của đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên phần đồng bằng trực thuộc châu Trường không thuận lợi làm nông nghiệp vì lúc đó hệ thống đê điều sông Hồng chưa được nối xuống đến vùng này. Dân số tương đối ít ỏi của châu Trường chủ yếu sinh sống bằng nghề đánh bắt cá và săn thú. Ngày tháng thành lập châu Trường không được ghi lại trong những cuộc cải cách hành chánh vào nửa đầu thế kỷ 7 nhưng châu Trường lại có tên trong kỳ kiểm kê dân số vào năm 740. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng châu Trường đã được thành lập cùng thời với châu Phúc Lộc trong những năm 660 như là một nỗ lực để nhà Đường kiểm soát chặt chẽ khu vực duyên hải tiếp cận với các trung tâm dân cư ở vùng hạ lưu. Châu Trường có vị trí chiến lược quan trọng vì nó khống chế con đường bộ chạy dọc theo bờ biển từ đồng bằng sông Hồng đi xuống miền Nam.

Châu Phong bao gồm các vùng đất nơi mà sông Hồng và các sông nhánh từ các vùng núi cao đổ về đồng bằng vì thế châu Phong được dùng làm đại bản doanh để kiểm soát toàn thể vùng sâu, vùng xa của đồng bằng sông Hồng và sông Mã. Có ít nhất 28 "châu độn" chạy dài mãi tới tận Vân Nam thuộc địa hạt châu Phong. Vì nhiệm vụ chiến lược của châu Phong dưới thời nhà Đường là bảo vệ Giao Chỉ chống lại các bộ tộc ở núi, nên suốt thế kỷ 9 khi nhà Đường gặp mâu thuẫn với các bộ lạc miền núi, châu Phong đã trở thành sân khấu của những vụ xung đột kéo dài.

Trung tâm quản trị dân số và hành chánh của Đô Hộ Phủ được đặt ở Giao Châu và chịu ảnh hưởng của Trung Quốc rất nhiều vì đây là nơi mà đông đảo nông dân sống quần tụ quanh lưu vực sông Hồng và đây cũng là địa điểm tiếp xúc của Trung Quốc với Việt Nam từ xưa đến giờ. Trong thời nhà Đường, Giao Châu là vùng đất đầu tiên được tiếp nhận văn minh Trung Quốc qua việc bị đô hộ theo thể thức hành chánh châu quận có ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu dài đến thế. Trong khi sự đối kháng ảnh hưởng Trung Quốc tại các châu khác được củng cố nhờ yếu tố địa dư thì Giao Châu nằm hoàn toàn trong vòng cương tỏa của vương triều, và ngày càng quen với những ý tưởng và tổ chức xã hội của Trung Quốc. Những đòi hỏi và yêu sách của các quan Tổng Quản Giao Châu lâu ngày thành nếp đã khuất phục được thái độ chống đối trong cách cư xử của dân chúng địa phương; những trường học được dựng lên, và những gia đình địa phương có tham vọng nay tiếp nhận được nền giáo dục kiểu Trung Quốc với một tư duy rập khuôn theo vương triều.

Tuy nhiên, trong các đền chùa, những tín ngưỡng cổ xưa vẫn được duy trì dưới sự che chở của Phật Giáo và của một loạt các vị thần linh xuất thân từ di sản văn hoá bản xứ. Viễn ảnh văn hoá Việt Nam dựa trên nền tảng của sự thờ cúng thần linh trong bối cảnh linh động Phật Giáo giúp Giao Châu đã trở thành trung tâm của Phật Giáo Việt Nam. Chính những viễn ảnh ấy sau này đã trở thành đỉnh cao văn hoá của một quốc gia độc lập khi Việt Nam chuyển mình tự chủ thoát ách đô hộ từ thế kỷ thứ 10 cho đến sau này.

Thật ra Giao Châu đã không trải qua một nền hành chánh rập khuôn theo kiểu Trung Quốc vì Trung Quốc chỉ luôn coi Giao Châu như là một địa hạt ở biên giới mà dân cư toàn là “bọn man di” không phải là người Trung Quốc; nhưng Giao Châu lại học được các kinh nghiệm của Trung Quốc nhiều hơn bất cứ châu nào khác. Năm 622, tám châu được lập ở đó và năm 627, những châu này đổi thành 8 quận và được gộp cả vào Giao Châu.

Trước thời nhà Đường, nhà Tùy đã từng lập một trung tâm hành chánh ở vùng phụ cận Hà Nội bây giờ. Năm 618, vì lo sợ Ninh Truờng Chân tấn công, Khâu Hoà đã cho xây một thành nhỏ có chu vi khoảng 900 bước được gọi là "Tử Thành" theo cách gọi của Trung Quốc đối với một thành lũy tọa lạc ngay giữa một khu dân cư đông đúc. Đây cũng chính là nơi mà khi xưa Lý Bí đã xây đồn lũy để chống Trần Bá Tiên trong trận đánh thứ nhì vào năm 545. Tử Thành được xây dựng ở bờ nam sông Hồng ngay mép nước triều lên cao nhất vào mùa khô. Lần đầu tiên được thiết lập như một địa hạt hành chánh riêng biệt vào giữa thế kỷ 5, nhờ đê điều đã được đắp dọc theo sông Hồng xuống tận đó, nên khu vực này đã trở thành một trung tâm chính trị đặc biệt dưới thời nhà Tùy và nhà Đường. Chính nơi đây viễn ảnh một nền hành chánh mở rộng của bắc triều đã được ghi nhận qua việc đặt trụ sở chính quyền trung ương địa phương tại phía nam sông Hồng.

Với vị trí dọc theo bờ biển phía bắc đồng bằng sông Hồng, khi mới được thành lập đầu vào năm 535 thì châu Lục có tên châu Hoàng nhưng vào năm 598 bị đổi tên thành Lục bởi Lịnh Hồ Hi. Năm 622, châu Lục lại được nhà Đường tổ chức thành một châu nhưng rồi lại bị bãi bỏ, và sau đó lại được đặt dưới quyền một châu khác ở về phía bắc vào năm 628. Đến năm 650, châu Lục lại tái xuất hiện thành một châu riêng biệt. Tên Lục, nghĩa là khô, "đất khô" bắt nguồn từ việc châu này có một con đường đất khô nối liền các bờ biển ở phía "bắc vùng duyên hải Quảng Đông" với các bờ biển ở "vùng biên giới phía nam" Việt Nam. Sách chép cho rằng châu này "nằm trong một vùng duyên hải nghèo nàn mà rau đậu không mọc được và dân chúng chằng phân biệt lụa với bông là gì vì đa phần sống nhờ biển". Châu Lục nằm trên ranh giới giữa Đô Hộ Phủ và đất vương triều do đó thường chịu sự kiểm soát trực tiếp nhiều hơn từ phía bắc.

Xem xét lại phần hành chánh và địa lý của Đô Hộ Phủ cho thấy có sự cách biệt lớn giữa các châu về phương diện dân số và chức năng. Nói chung các châu đều là những bộ phận của đô hộ phủ nhưng không phải vì thế mà không thiếu những nét đặc thù của từng châu.

Các châu Giao, Phong, Ái và Hoan nằm trong những phần đất thấp và phì nhiêu nơi dân cư tập trung đông đúc. Châu Giao là châu lớn hàng đầu, có quan hệ mật thiết nhất với nhà Đường. Châu Phong với đặc điểm ở gần núi non nên giữ vai trò của bảo vệ miền biên giới châu Giao. Châu Ái tương đối không bị những thế lực bên ngoài khuấy rối nên khó mà đi vào khuôn khổ theo kiểu cai trị của nhà Đường như các châu khác. Việc châu Ái hưởng ứng mạnh mẽ ý tưởng độc lập của Việt Nam vào thế kỷ thứ 10 là bằng chứng hùng hồn cho thấy rằng, trong tất cả các khu vực thuộc lãnh thổ Việt Nam sau này, châu Ái là châu kế thừa và bảo tồn truyền thống Việt Nam được nhiều nhất trong suốt thời kỳ nhà Đường đô hộ. Châu Hoan nhỏ và hẻo lánh, một mặt có cơ hội tiếp xúc chặt chẽ với các châu láng giềng ở miền Nam và miền Tây, nhưng đồng thời phải chịu đựng những khuấy phá và tấn công liên tục do những khác biệt về biên giới địa lý và văn hóa. Châu Diễn và châu Phong có nhiệm vụ giữ an ninh các vùng núi ở sâu và xa cũng như ba vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã, và sông Cả. Còn các châu Phúc Lộc, Diễn, Trường và Lục, giữ an ninh những vùng bờ biển và làm trái độn giữa vùng đồng bằng với vùng biên cương Lâm Ấp cũng như các áp lực từ phía Bắc triều.

Năm 742, tất cả những châu này lại một lần nữa bị hạ xuống cấp quận, và đúng 16 năm sau, tức là vào năm 758, tổ chức hành chánh các châu theo kiểu cũ lại được phục hồi. Đây là lần thay đi đổi lại cuối cùng trước khi diễn ra cuộc nổi dậy của An Lộc Sơn ở Trung Quốc. Cuộc nổi dậy của An Lộc Sơn (756 – 763) đã khiến nhà Đường rơi vào cảnh rối loạn đảo điên nên tạm thời Trung Quốc không có thời gian và thế lực để gây áp lực lên miền biên giới phía nam.


việt nam khai quốc: kiểm tra dân số (chương 5, phần 2)

Trong thời kỳ đô hộ An Nam Đô Hộ Phủ nhà Đường đã tiến hành kiểm tra dân số tất cả 5 lần với các con số được lưu lại trong thư tịch theo Bảng 5. Theo bảng thống kê dân số này thì số dân kiểm tra lần đầu tiên là theo “số liệu cũ”, có lẽ vào khoảng đầu thế kỷ 8. Lần kiểm tra dân số thứ nhì, vào thời Khai Nguyên (713-741) có thể được thực hiện vào năm 726. Thống kê dân số cho năm 740 và chỉ hai năm sau đó, nhân dịp Trung Quốc lấy niên hiệu mới vào năm 742, thì chẳng khác nhau với một chỗ sai biệt rõ ràng là do “tam sao thất bổn”.

Lần kiểm tra dân số An Nam Đô Hộ Phủ cuối cùng của nhà Đường là vào năm 807. Trong lần kiểm tra này dân số châu Hoan và châu Ái đã giảm xuống rõ rệt vì hậu quả chiến tranh trong các năm 803-809 với Hoàn Vương (Lâm Ấp). Phần nữa, vì được tách thành một châu riêng, nên Châu Diên đã chia bớt dân số của châu Hoan.

Bảng 5. THỐNG KÊ DÂN SỐ TẠI AN NAM ĐÔ HỘ PHỦ THỜI NHÀ ĐƯỜNG

Năm Số Liệu Cũ 726 740 742 807
Châu Hộ Nhân Khẩu Hộ Hộ Nhân Khẩu Hộ Nhân Khẩu Hộ
Giao 17.523 88.788 25.690 24.730 99.660 24.230 99.652 27.135
Phong 5.444* 6.435 3.561* 1.920 5.119 1.920 ……. 1.483
Ái 9.080 36.519 14.056 40.700* 135.030* 14.700 ……. 5.379
Hoan 6.579 16.689 6.649 9.629 53.818 9.619 50.818 3.843
Lục ……. ……. 1.934* 490 2.710 494 2.674 231
Trường ……. ……. 630 3.040 ……. ……. 648
Diên (gộp trong châu Hoan) 1.450
Phúc Lộc ……. ……. ……. ……. ……. ……. ……. 317
Tổng Cộng 148.431 40.963 40.486

* Rõ ràng là con số nhầm lẫn

Tài liệu: Cựu Đường Thư 41, 42b-46b; Tân Đường Thư 43a, 9b-11a

Nguyên Hoà Quận Huyện Chí, Thượng Hải, 1935-37

Thông Điển 174, 50a – 51a Thượng Hải 1902

Thái Bình Hoàn Vũ Chí. 171, 11b, Taipei 1963

Từ những ô bỏ trống và những con số sai biệt rõ ràng trong Bảng 6 chúng ta chỉ có thể so sánh dân số trong “số liệu cũ” với dân số năm 742 đối với châu Giao và châu Hoan, 2 châu duy nhất có số thống kê đầy đủ. Qua so sánh cho thấy sự gia tăng bất bình thường về số dân đăng ký vào thế kỷ 8. Không giống những thời kỳ ổn định trước đời Đường, việc di cư của người Trung Quốc vào Việt Nam đã tạo ra những thay đổi cơ bản đối với một vài khu vực trong xã hội Việt Nam. Ảnh hưởng của những người di cư đến Giao Châu được thấy rõ qua số hộ dân đã tăng lên 3 lần mau hơn số dân, nghĩa là số nhân khẩu bình quân trong mỗi hộ đã giảm đáng kể.

Ngược lại phần châu Hoan thuộc phía nam của An Nam Đô Hộ Phủ thì số dân tăng 4 lần mau hơn số hộ nghĩa là số nhân khẩu bình quân trong mỗi hộ đã tăng quá gấp đôi. Nguyên nhân của sự khác biệt giữa châu Giao và châu Hoan trong vấn đề dân số là vì dân chúng di cư đến châu Hoan từ nhiều vùng khác nhau, trong khi phần lớn người di cư đến châu Giao là từ Trung Quốc như đã trình bày ở trên.

Di dân Trung Quốc nhập cư Việt Nam với tư cách cá nhân hay từng hộ nhỏ. Phần lớn họ là binh sĩ hay thương nhân Trung Quốc di cư đến Việt Nam, lập gia đình với phụ nữ địa phương, rồi quyết định ở lại đó. Cũng có một số khá đông là những người bị Trung Quốc lưu đầy nên thường chỉ đến một mình hoặc với một vài người trong gia đình. Ngoài ra, lại có một số quan chức ở lâu, thích cảnh vật và quyết định ở lại. Các loại người di cư này đã khiến số nhân khẩu bình quân trong mỗi hộ dân ở Giao Châu đi xuống. Ngược lại, ở châu Hoan, do người di cư đến thành từng nhóm đông với họ hàng thân thuộc, phe phái, thị tộc nên số nhân khẩu trung bình trong mỗi hộ đi lên. Nói vắn tắt, những người từ Trung Quốc di cư làm thay đổi xã hội Việt Nam ở phía Bắc và những người di cư từ nhiều nơi khác làm thay đổi xã hội Việt Nam ở phía Nam.

Thế kỷ thứ 8 là thời kỳ có rất nhiều bất ổn đặc biệt ở vùng biên giới phía nam. Năm 722, như sẽ được trình bày chi tiết sau, có một lãnh đạo địa phương ở châu Hoan đã tập hợp được một đạo quân lớn gồm đủ mọi sắc dân và tạm thời đuổi được nhà Đường ra khỏi An Nam Đô Hộ Phủ. Đạo quân gồm đủ mọi sắc dân này đến từ nhiều vùng ở Đông Nam Á theo sau một loạt các cuộc di cư mà đến nay các nhà sử học vẫn chưa tìm hiểu được rõ lý do và nguồn gốc của họ.

Đầu năm 758, tài liệu của Trung Quốc có nhắc đến danh hiệu Hoàn Vương thay vì Lâm Ấp và năm 877 lại nói đến Chiêm Thành hay Champapura. Thời Hoàn Vương, vương quốc Chàm nằm phụ cận Nha Trang và Phan Rang bây giờ, và ở quá phía Nam Lâm Ấp. Đầu năm 875, lại có một triều đại mới khác xuất hiện ở vùng phụ cận Đà Nẵng ngày nay. Các mối bất ổn và nổi dậy như thế ở phía Nam đã tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ về dân số ở châu Hoan vì nhiều phe phái và các thị tộc sau khi vượt qua biên giới vào năm 722 có lẽ đã ở lại và định cư ở châu Hoan. Khi vương quốc Chàm mở rộng về phía Nam, rồi lại ngược bờ biển tiến lên phía bắc thì nhiều nhóm dân chắc chắn đã trú ngụ lại châu Hoan nơi đang chịu ách đô hộ của nhà Đường. Cũng sau biến cố năm 722 rất có thể đã có nhiều binh sĩ nhà Đường quyết định ở lại Giao Châu như được thấy trong bản thống kê dân số.

Khi so sánh bảng 4 với bảng 5, ta thấy số dân được kiểm tra của nhà Tùy phần nào cao hơn nhà Đường. Có thể một phần là vì những phương pháp tính toán khác nhau nhưng lý do cơ bản là nhà Tùy đã chiếm được Việt Nam mà không phải đánh một trận nào và kiểm soát ngay được một xã hội đã và đang phát triển một cách tự chủ trên một nửa thế kỷ rồi. Mặc dù nhà Tùy sau này phải đương đầu với những làn sóng nổi dậy mạnh mẽ ở Việt Nam đến nỗi phải sai Khâu Hoà xuống bình trị nhưng cần hiểu rằng những con số thống kê này nhà Tùy đã thu thập trước khi những rối loạn đó có thể gây ra những tác động về dân số.

Bảng 6. So Sánh Kiểm Tra Dân Số từ “Số Liệu Cũ” và Kiểm Tra Năm 742 tại Châu Giao và Châu Hoan
Châu % Gia Tăng Số Dân và Số Hộ Số nhân khẩu tính bình quân trên mỗi hộ dân Nhân khẩu bình quân tăng/giảm trên mỗi hộ dân
Số Dân Số Hộ “Số liệu cũ” 742
Giao 38% 12% 5,1 4,1 -1
Hoan 46% 204% 2,5 5,3 +2,8

Kiểm tra dân số của nhà Đường lại có từ sau khi những vụ nổi loạn lớn, năm 687 và 722; sau một thời kỳ hỗn loạn và hầu như độc lập của Việt Nam vào cuối thế kỷ 8. Chúng ta có thể nghĩ rằng những con số kiểm tra dân số thấp của nhà Đường phản ánh ảnh hưởng của các cuộc bạo động chính trị đối với dân số.

Rập khuôn các bắc triều trước đó, những con số thống kê về dân số của nhà Đường tại Việt Nam chỉ bao gồm phần dân chúng mà họ kiểm soát được. Trong một thế kỷ rưỡi đầu tiên khi nhà Đường đô hộ Việt Nam, thì chỉ có 3 trong số 6 loại người phải đóng thuế được gồm trong bản kiểm tra. Do đó không thể biết chính xác bao nhiêu phần trăm số dân trong bản kiểm tra tính trên tổng số dân thực sự mà chỉ ước chừng vào khoảng từ 10% đến 30% của tổng số dân thực sự sinh sống tại An Nam Đô Hộ Phủ mà thôi.

Các hồ sơ của nhà Đường thì cho rằng Giao Châu chiếm phân nửa tổng số dân đăng ký trong toàn An Nam Đô Hộ Phủ. So sánh với kiểm tra dân số cũ, Giao Châu chiếm 64,2% tổng số dân đăng ký; năm 742 chiếm 47,5% tổng số hộ dân đăng ký. Đến năm 807, con số này đã tăng lên 67%, mặc dù số tăng này có thể do một phần những chiến cuộc ở Ái và Hoan. Trong tất cả các châu thuộc An Nam Đô Hộ Phủ, bốn châu Giao, Phong, Ái và Hoan chiếm gần như toàn bộ số dân đăng ký thì đều ở vùng đất thấp, gồm những cộng đồng nông nghiệp đã định cư. Số kiểm tra ở các châu khác có thể tiêu biểu cho những khu canh tác khác trong vùng núi hay vùng đất duyên hải nơi mà cuộc sống nay đây mai đó rất khó kiểm soát. Tất cả những điều kể trên dường như xác nhận ý kiến cho rằng đời sống kinh tế và xã hội của Đô Hộ Phủ không dựa vào buôn bán, mà căn bản hơn là vào tầng lớp dân chúng chính thức làm nông nghiệp theo thời vụ.

Cũng cần nói thêm rằng số dân đăng ký trong các bảng kiểm tra dân số ấy không thể phản ánh toàn cảnh xã hội Việt Nam vì chưa tính đến một số khá lớn người Việt tìm đến sống ở những vùng cao hay những khu xa xôi ở ven vùng đất thấp, nơi áp lực của bắc triều không đủ mạnh. Tổ tiên của người Mường sống ở các vùng đất cao giữa sông Hồng và sông Cả không chịu ảnh hưởng văn hoá, ngôn ngữ của nhà Đường như những đồng bào của họ ở vùng đất thấp. Hơn nữa họ cũng chẳng bao giờ được tính đến trong bất cứ một cuộc kiểm tra dân số nào của nhà Đường cả.

Khi so sánh số dân được kiểm tra trong thời gian Việt Nam bị đô hộ từ thời nhà Hán đến nhà Đường, ta sẽ lần ra đầu mối để tìm hiểu gốc gác của người Mường. Thống kê dân số thời nhà Hán sai biệt quá nhiều so với những thế kỷ đô hộ về sau. Thí dụ như cuộc kiểm tra làm năm 2 SCN thời Hán cho thấy có tới 950.000 người Việt Nam, trong khi theo nhà Đường thì dân số lại chưa đến 150.000, nghĩa là dân số hơn 8 thế kỷ sau mà lại giảm đi hơn 80%! Cũng không thể cho rằng thống kê của nhà Hán đã được thổi phồng lên vì các quan chức phải nộp cuống biên lai thu thuế bằng với số dân đã kiểm tra trong địa hạt do đó họ thường báo cáo số dân ít hơn số dân thực sự chứ không đời nào lại báo nhiều hơn để bị khép vào tội lấy thuế dân làm của riêng.

Có một số ý kiến cho rằng dân số Trung Quốc nói chung sụt giảm nhiều từ thời Hán đến thời Đường là hậu quả của các cuộc nổi loạn và chiến tranh thời Hán và cả sau khi nhà Hán lụi tàn. Nhưng điều giải thích cơ bản hơn là việc có thêm nhiều đại gia đình địa chủ khiến những nông dân trước kia từng được đăng ký độc lập như một cá thể nay trở thành tá điền hay “nông nô” nên không còn được tính trong số dân phải nộp thuế nữa.

Riêng tại Việt Nam, vì hậu quả hoặc nhân cơ hội những cuộc binh biến giữa Lâm Ấp và các địa hạt của Việt Nam thời bị trị, nhiều người Việt đã chạy trốn xuống Lâm Ấp để tránh sự cai trị hà khắc của Trung Quốc hoặc đến định cư tại những vùng núi cao tại Việt Nam nơi mà sự cai trị của Trung Quốc lỏng lẻo hơn nhờ địa lý hiểm trở ít quan lại lui tới hay các điều kiện xã hội, kinh tế ở đó. Điều này cắt nghĩa gốc gác của người Mường, một sắc tộc sống ở vùng cao nguyên nam sông Hồng và có ngôn ngữ và văn hoá rất giống với người Việt Nam. Các học giả Việt Nam ngày nay tin rằng ngôn ngữ Mường và Việt chỉ bắt đầu phân nhánh khi họ bị nhà Đường đô hộ hoặc sau khi Việt Nam không còn chịu ách đô hộ của Trung Quốc nữa. Trước đó các giao lưu văn hóa giữa đồng bằng và các vùng núi ở Việt Nam rất dễ dàng theo kiểu xã hội bộ lạc và không có những khuôn mẫu trí tuệ định chế theo kiểu Trung Quốc dưới các triều đại Việt Nam trong thời kỳ độc lập sau này.

Dân số Mường gia tăng trong thời nhà Đường đô hộ đã giải thích tại sao lại có sự giảm bớt số dân tại An Nam Đô Hộ Phủ trong bảng kiểm tra dân số so với thời nhà Hán đô hộ vì những người sống trong vùng cao nguyên chẳng mấy khi chịu đăng ký hộ khẩu. Người Tày và người Nùng ở các vùng núi phía bắc Việt Nam, gần biên giới Trung Quốc cũng đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Việt Nam thời thượng cổ. Chưa kể đến người các người Việt thiểu số như Mon Khmer, người Malai Pôlinisi và một số rất lớn dân chúng sống nổi trôi dưới vùng đồng bằng, ngoài các con đê, sống bằng nghề biển hay hàng hải ngoài biển xa nơi mà việc kiểm soát trực tiếp của nhà Đường chẳng bao giờ đến được.

Việc đô hộ và thu thuế của Trung Quốc tại Việt Nam lấy trọng tâm là tầng lớp nông dân định cư ở các vùng đất thấp. Tuy phải đăng ký và chịu sưu cao thuế nặng cho các quan lại Trung Quốc, người Việt Nam vẫn luôn gìn giữ bản sắc của họ. Họ không bao giờ đánh mất ngôn ngữ và vẫn diễn tả những cảm xúc hay tư tưởng của họ một cách rõ rệt. Họ không bao giờ mất lòng tin ở quá khứ và luôn trân trọng các di sản văn hóa. Bằng cách bảo tồn di sản ấy, họ đã để lại dấu ấn của họ, không những qua các con số trong các bảng kiểm tra dân số còn lưu lại đến nay mà cả trong thực tế kế thừa của một nước Việt Nam độc lập.

Các thống kê dân số từ thời Hán đến thời Đường tại các vùng bị trị Quảng Đông, Quảng Tây, và Việt Nam ngày nay cho thấy rằng, so với Việt Nam, khu vực Quảng Đông, Quảng Tây đã có nhiều thay đổi về dân số do dân nhập cư từ Trung Quốc. Kiểm tra dân số vào năm 2 SCN thời nhà Hán đô hộ cho thấy 67% các hộ dân đăng ký ở ba vùng ấy là người Việt Nam nhưng đến thời Đường theo “số liệu thống kê cũ” thì con số này đã giảm xuống chỉ còn 13%. Nếu tính theo số hộ dân thì thống kê vào năm 2 SCN cho thấy có 71.805 hộ ở Lưỡng Quảng và sau đó tăng lên 274.696 hộ theo “số liệu cũ” thời Đường, tức là gia tăng gần 400%. Ngược lại, số hộ dân đăng ký ở các vùng thuộc Việt Nam ngày nay là 143.643 trong kỳ thống kê năm 2 SCN và xuống còn chưa đến 40.000 hộ theo “số liệu cũ” đời Đường. Những thống kê này cho thấy rằng khuôn mẫu di cư vào các vùng thuộc Việt Nam ngày nay rất khác biệt với những gì xảy ra ở Lưỡng Quảng. Điều này cũng chứng tỏ sự đối kháng mạnh mẽ của dân chúng tại những vùng thuộc Việt Nam ngày nay đối với ách thống trị của Trung Quốc đối với việc đăng ký dân số và thu thuế. Áp lực thống trị của Trung Quốc bị giảm thiểu ấy có lẽ bắt nguồn từ những gia đình địa phương có thế lực cũng như thế phòng thủ đầy ngõ ngách của miền biên giới cao nguyên Việt Nam.

việt nam khai quốc: NHỮNG NGƯỜI ĐI HÀNH HƯƠNG VÀ NHỮNG THƯƠNG NHÂN (chương 5, phần 3)

Trong thế kỷ 7 và đầu thế kỷ 8, vì đế quốc Đường củng cố được sự cai trị trên phần lớn châu Á Châu khiến nhiều Phật tử ở Đông Á có dịp đi hành hương đất Phật ở Ấn Độ và Tích Lan. An Nam Đô Hộ Phủ là địa điểm quan trọng vì các chuyến hành hương bằng đường biển xuất phát từ đây theo. Các Phật tử Việt Nam cũng nhân cơ hội này tham dự các chuyến hành hương cho thoả lòng mong ước.

Các thông tin về vài chuyến hành hương như vậy của Trung Quốc vào thời đó còn được lưu giữ đến ngày nay. Minh Viễn, quê ở Tứ Xuyên, đã xuống tàu từ An Nam Đô Hộ Phủ. Đến Java thì nghỉ chân, rồi thẳng tới Tích Lan và Ấn Độ. Một người khác, quê ở Hồ Bắc là Vô Hành, cũng đã xuống tàu ở An Nam Đô Hộ Phủ để đi Ấn Độ; trên đường ông dừng chân ở Sumatra và trở thành bạn đồng hành của một người có tên tuổi là Nghiã Tịnh (635-713). Lại có một khách hành hương nữa ở Hồ Bắc tên là Huệ Minh, nhưng ông này không may mắn bị gặp bão ngoài khơi Lâm Ấp và phải quay về Trung Quốc qua đường An Nam.

Phần đông người Trung Quốc đi hành hương Ấn Độ chỉ ghé qua An Nam như một trạm dừng chân, có những người đã ở lại An Nam khá lâu và góp sức vào các hoạt động Phật Giáo ở đây. Trí Hoằng, người Lạc Dương, đã ở lại An Nam một năm trời trước khi tiếp tục lên đường đi Ấn Độ qua ngả Sumatra. Đàm Nhuận, cũng người Lạc Dương, đã tá túc ở An Nam để tránh một đợt gió mùa và được dân địa phương rất quý trọng vì tính tình thẳng thắn của ông. Khi ông tiếp tục cuộc hành hương sang Ấn Độ thì có một người Giao Chỉ là Văn Ký đi theo.

Nhưng không may Đàm Nhuận chết ở dọc đường, tại một nơi gần đảo Java, còn Văn Kỳ quyết định ở lại. Trong thời gian ở đó Văn Kỳ đã đọc thông viết thạo tiếng Phạn và tiếng Mã Lai (K’un Lun). Về sau, một người Trung Quốc hành hương khác là Hội Ninh ở Java và một nhà sư ở Java tên Jnanabhadra cũng dịch một ít kinh Phật sang tiếng Trung Quốc và Văn Kỳ được giao nhiệm vụ đem những bản dịch ấy về Trung Quốc.

Về lại Giao Chỉ khoảng những năm 670, Văn Kỳ đi thẳng lên kinh đô để trình những bộ kinh Phật đã được dịch lên vua Đường. Trên đường sang Java một lần nữa để chuyển lại thông điệp của triều đình nhà Đường cảm ơn các dịch giả, Văn Ký đã nán lại An Nam Đô Hộ Phủ để thuyết pháp trong cộng đồng Phật Giáo và trong dân chúng địa phương nên khi đến Java thì Huệ Ninh đã khởi hành đi Ấn Độ rồi thế là Văn Kỳ đành ở lại Sumatra.

Cũng vào cuối thế kỷ 7, một người quê quán ở Trung Á tên là Sanghavarma đã hành hương sang tận Ấn Độ và sau đó được triều Đường phái xuống Giao Châu để làm thuốc. Vì những hoạt động từ thiện nhân một nạn đói ở đó khiến Sanghavarma được dân chúng tôn thờ và coi như một vị Bồ Tát.

Gương đức hạnh và lòng sùng đạo của những người đi hành hương từ Trung Quốc đã được nhiều Phật Tử Việt Nam noi theo. Một người quê ở Giao Châu là Mộc Xoa Đề cũng đi theo con đường ấy qua các đảo ở Nam Á để tới Ấn Độ. Khuy Sung, một người hành hương nữa cũng ở Giao Châu, đi theo Minh Viễn tới Java, Tích Lan rồi đến Ấn Độ. Người thứ ba, cũng quê ở Giao Châu, là Huệ Diễm, theo sư phụ của ông đến Tích Lan. Một người ở châu Ái là Trí Hạnh, đi qua các vùng đảo ở phía nam biển Đông để tới Ấn Độ. Đại Thắng Đặng cũng từ Ái Châu đi Thái Lan lúc còn niên thiếu và sau đó đã sống ở kinh đô Đường trước khi theo con đường hành hương qua các đảo ở Nam Hải và Tích Lan để đến Ấn Độ, nơi đó, ông gặp và kết bạn với Nghĩa Tịnh.

Những người hành hương theo chân các thương nhân xuống tàu sang Java và Ấn Độ từ các cảng ở An Nam Đô Hộ Phủ. Không thể có một kỷ nguyên mà các chuyến hành hương lại dễ dàng và tấp nập như thế nếu không có một nền giao thương hàng hải quốc tế sinh động, vì những người hành hương chỉ việc đi theo các hải lộ của các thương thuyền. Xét về mặt tôn giáo đây là thời kỳ hành hương tấp nập nhưng phải hiểu rằng đó là nhờ giao thương hàng hải đã phát triển trên quy mô rộng rãi.

Một lần nữa, người đọc hiểu rằng người Việt Nam đã gắn kết chặt chẽ với thế giới biển ở Đông Nam Á như thế nào. Ranh giới văn hoá giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã được cải thiện nhờ di sản chung là Phật Giáo, nhất là trong thời đại thế giới chủ nghĩa của nhà Đường. Những Phật tử Trung Quốc và Việt Nam du hành đến những tiểu quốc trên các đảo ở Đông Nam Á để trau dồi tiếng Phạn trước khi đặt chân lên đất Phật. Những chiếc tàu chở đầy hàng hoá mà họ tháp tùng là do những thương nhân làm chủ.

Thời đại của những người đi hành hương và thương nhân đã là một chủ đề nổi bật của lịch sử vùng Đông Nam Á mà trong đó có Việt Nam: chủ đề về giao thương và tiếp xúc hàng hải luôn được coi là nguồn gốc của nền văn minh.

NHỮNG NGƯỜI BỊ LƯU ĐẦY

Tuy nhiên, ở miền Nam những tiếp xúc chặt chẽ nhất vẫn là từ phương Bắc với làn sóng các binh sĩ, quan lại, hoàng thân và cả những quan chức bị lưu đầy từ phương Bắc tiếp tục kéo xuống miền Nam. Một trong những đô đốc đầu tiên của Giao Châu là một người trong hoàng tộc nhà Đường tên là Lý Thọ. Đường Thái Tôn lên ngôi năm 627 với nhiều cải cách khiến Lý Thọ bị sa thải về tội tham nhũng. Sau đó Đường Thái Tôn cho đòi Lữ Tổ Thượng, một quan chức có tài và có danh tiếng đến và bảo: “Giao Châu là một vùng biên giới rộng lớn, cần phải có quan chức tốt trông coi nhưng cho đến bây giờ chưa có một đô đốc nào làm đầy đủ nhiệm vụ cả. Xét thấy ngươi có khả năng, vậy hãy đi và phòng thủ Giao Châu cho trẫm. Không được viện lẽ xa xôi mà từ chối.”

Lữ Tổ Thượng vâng vâng dạ dạ nhưng về sau lại viện cớ bịnh hoạn và chẳng chịu đi xuống miền Nam nhậm chức mới. Sau nhiều lần sai sứ giả đến giục ông lên đường nhưng không được, Đường Thái Tôn sai chính anh rể của Lữ Tổ Thượng đến để phân giải cho ông nghe. Sau khi nghe anh rể nói hết lời về danh dự và bổn phận, Lữ Tổ Thượng trả lời: “… miền Nam có nhiều bệnh sốt rét hoành hành; nếu đệ đi đến đó thì sẽ chẳng có ngày về.”

Thái độ ngoan cố của Tổ Thượng khiến Đường Thái Tôn nổi giận và thét đao phủ đem ông ra chém đầu vì tội bất tuân. Việc này cho thấy sự lựa chọn giữa nhát chém của đao phủ và khả năng mất mạng khi vướng phải sơn lam chướng khí dẫn đến việc nhiều quan chức bị giáng cấp và lưu đầy biệt xứ đã trở thành một phương cách để bố trí các quan lại nhà Đường xuống miền Nam làm việc. Ví dụ như năm 635, Lý Đạo Hưng, một người trong hoàng tộc nhà Đường bị đổi xuống làm Đô Đốc Giao Châu như một cách trừng phạt về một tội phạm không được ghi vào hồ sơ; và ông này đã chết vì bịnh hoạn trong vòng chưa tới một năm sau khi nhận nhiệm sở.

Danh sách những người Trung Quốc bị lưu đày xuống Nam rất dài và gồm nhiều người có tên tuổi như Đỗ Chính Luân đã được Đường Thái Tôn bổ làm phụ tá cho Hoàng Thái Tử; nhưng khi Thái Tử âm mưu cướp ngôi vua năm 643 thì Đỗ Chính Luân bị giáng chức xuống làm Đô Đốc Giao Châu.

Tương tự như thế, sau âm mưu phản nghịch của Phòng Di Ái năm 652 bị bại lộ lại có thêm những kẻ bị lưu đày mới. Anh của Văn Bi và em của Sài Triết Uy vì can dự vào âm mưu này nên cả hai đều bị nghi ngờ và bị đày xuống miền Nam. Về sau, Triết Uy được vua khoan hồng với cơ hội chuộc tội là chịu đi làm Đô Đốc Giao Châu.

Sau năm 655, Lý Nghĩa Phủ, một quan đại thần có thế lực trong triều và Đỗ Chính Luân được phục hồi chức vị dưới sự bảo trợ của Võ Hoàng Hậu (Võ Tắc Thiên). Hai ông này sau đó lại cho rằng nhà thư pháp danh tiếng, Chử Toại Lương, là trở ngại lớn cho kế hoạch của họ nên ghép Chử Toại Lương vào tội bất trung và giáng xuống làm Đô Đốc một châu trong tỉnh Hồ Nam ngày nay. Đầu năm 657, Chử Toại Lương lại bị giáng chức xuống nữa, làm Đô Đốc Quế Châu, ở Quảng Tây. Bốn tháng sau, Lý Nghĩa Phủ lại buộc tội Chử Toại Lương đã mưu toan dùng Quế Châu làm căn cứ ly khai và giáng xuống chức Đô Đốc châu Ái. Chử Toại Lương sau khi đến Ái Châu thì thảo ngay một tờ biểu về triều để tâu trình ngọn ngành là mình vô tội, nhưng chẳng đạt được kết quả gì. Khi ông chết vào cuối năm 658; hai người con trai của ông, cũng bị đi đày với ông, đều bị ám hại chết.

Chưa hết, vì nhà Đường thay đổi chính sách liên miên nên năm 658, đến lượt Nghĩa Phụ và Chính Luân bị buộc tội mưu phản và bị đày xuống Quảng Tây. Trớ trêu rằng chỉ vài tháng trước đó, Chính Luân còn khuyến cáo rằng có quá nhiều người bị lưu đày thì nay đã xảy ra chuyện như thế. Mặc dầu Nghĩa Phụ sau đó thoát nạn trở về Bắc và có gây dựng được thanh thế trở lại, nhưng Chính Luân phải chịu để nắm xương tàn ở miền Nam.

Thông thường, một người càng bị tội nặng bao nhiêu, càng bị đày xa xuống miền Nam bấy nhiêu cho nên Lý Thọ, một thân quyến của Lý Nghĩa Phụ và bộ hạ của Chính Luân bị đày xuống châu Hoan. Trước năm 628, Bùi Thiện Thông, một hầu cận của Dương Hoàng đế nhà Tùy, cũng bị tống xuống châu Hoan vì bị triều đình nghi kỵ. Sau này có Lý Càn Hữu, một Thứ sử ở Hồ Bắc bây giờ, bị đày xuống châu Hoan vì đã viết những bài văn châm biếm chính sách triều đình. Đến cuối thế kỷ 7, Nghiêm Thiên Tư, một quan ngự sử có uy tín, nhưng bị khép tội tham nhũng và cũng bị đày xuống châu Hoan

Không thể thích ứng được với lề thói săm soi của Ngự sử đài, một cơ quan rất nhạy cảm của nhà Đường, nên nhiều quan chức chính trực phải chịu đi đày xuống miền Nam. Lăng Dư Khánh bị đổi xuống làm Thứ Sử Giao Châu vì đã tỏ ra sốt sắng thái quá với công việc Ngự Sử. Lại một quan Ngự Sử đáng tôn kính khác là Lý Sao bị đày xuống làm thư ký giữ sổ sách ở Long Biên, Giao Châu, sau khi dám tranh luận với vua. Rồi lại có Hàn Tư Ngạn, một quan Ngự Sử rất có uy tín dám cả gan cảnh cáo Cao Hoàng Đế về thế lực ngày mỗi mạnh của Võ Tắc Thiên Hoàng Hậu. Kết quả là ông phải từ quan bỏ về dưới áp lực của Lý Nghĩa Phủ. Năm 675, một thời gian lâu sau khi Nghĩa Phủ chết, Cao Hoàng Đế nhớ đến Hàn Tư Ngạn và gọi ông về triều với ý định phong chức cho ông nhưng vì đã xa công việc triều chính đã lâu, nên ông quên hết cả nghi lễ và tập tục ở trong triều. Khi đến trước mặt Hoàng Đế, ông quên cả những thủ tục phải thi hành trong một dịp như thế, và kết quả là ông bị đày xuống làm một Lịnh Quan ở châu Diên, Giao Châu, rồi chết ở đó.

Nhiều người bị đày xuống miền Nam là những danh sĩ rất có ảnh hưởng trong việc phát triển văn hoá ở vùng biên giới. Tiêu biểu là Vương Phúc Thời, xuất thân từ một gia đình danh sĩ ở Sơn Tây. Dưới thời Cao Hoàng Đế nhà Đường, ông bị đày xuống làm Lịnh Quan ở Giao Chỉ sau khi một người con trai của ông bị cách chức. Người con khác của ông là Vương Bột, rất nổi tiếng về thi pháp nhưng khi đi thuyền xuống Giao Chỉ thăm ông thì, không may, thuyền bị đắm và chết đuối. Sử chép Vương Phúc Thời cho xây nhiều trường học và được các gia đình quý tộc địa phương rất quý trọng.

Năm 705, sau khi Võ Tắc Thiên bị buộc phải thoái vị, có hai quan chức học giả bị tạm thời đày xuống An Nam Đô Hộ Phủ. Đỗ Thẩm Ngôn bị đày xuống châu Phong và Thẩm Toàn Kỳ xuống châu Hoan. Hai ông này đều để lại những bài thơ cảm thán trong thời gian bị đi đày ở miền Nam. Dưới đây là một trong những bài thơ của Toàn Kỳ:

Ta được nghe nói nhiều về Giao Chỉ
Rằng những tục lệ miền Nam đi sâu vào lòng người
Mùa đông thì ngắn
Còn ba mùa còn lại thì mặt trời luôn toả sáng
Ở đó quan Úy Tô từng có cả một vương quốc
Và Sĩ Nhiếp vẫn lảng vảng từ thế giới bên kia
Nhà cửa trong làng truyền từ đời này sang đời nọ
Cá và muối đã có từ thuở xa xưa
Từ thời thượng cổ, người Việt triều cống chim bạch trĩ
Tướng quân Hán trầm tư vì con chim bồ cắt
Chòm sao Đại Hùng treo lơ lửng trên non Chung
Ngọn gió Nam thổi trên biển Trang
Từ khi ta rời quê nhà, năm tháng qua lại qua
Mái tóc bạc báo tin nay ta đã già
Các huynh đệ ta ai cũng chào thua định mệnh
Vợ con ta cũng đã ra người thiên cổ
Kìa con đường hiu quạnh, kìa bức tường đổ nát
và những giọt lệ rơi
Trái tim ta chẳng còn âm vang ý muốn của Trời nữa

Câu nói “người Việt triều cống chim bạch trĩ ” là nhắc lại theo huyền sử Trung Quốc, khi Trang Vương của nhà Châu (1115-1078 TCN) nhận được chim trĩ do người từ bộ tộc Việt Thường đem triều cống vào năm 1110 TCN. Đây là lời ghi lại xưa cũ nhất về sự tiếp xúc giữa Trung Quốc thời cổ và người Việt nên sự kiện này đã trở thành cái mốc đánh dấu thuở sơ khai của lịch sử Việt Nam. Trong trí óc của người Trung Quốc thì thời kỳ cổ đại này cho thấy sự qui phục của người Việt khi phải đem đồ triều cống Trung Quốc. Đối với các học giả Việt Nam về sau này thì thời kỳ đó là bằng chứng đất nước họ đã tồn tại từ đời thượng cổ. Lẽ tất nhiên, như Chương I đã nói, người Việt Thường năm 1110 TCN không có gì dính dáng đến người Việt Nam cổ đại cả.

Câu thơ “Tướng quân Hán trầm tư vì con chim bồ cắt” là nhắc đến lời của Mã Viện khi đem quân Hán chinh phạt miền Nam vào năm 42-43. Khi phải tạm dừng quân trong đồng bằng sông Hồng vào mùa gió Nồm và nhìn thấy một con chim bồ cắt rơi xuống sông và chết vì cố bay trong cơn mưa, Mã Viện ngẫm nghĩ đến lẽ sống ở đời và tự hỏi lý do gì khiến ông phải lăn lộn lo toan mọi việc như thế. Tứ thơ nhắc đến con chim bồ cắt là có ý gợi lên phút trầm tư mặc tưởng của tác giả vì đang phải sống xa nhà trong một môi trường xa lạ với nhiều hiểm hoạ khó lường. Chung Sơn là ngọn núi cao ở phía Nam tỉnh Hồ Nam. Cảnh chòm sao Đại Hùng trên bầu trời phía Bắc toả chiếu trên một ngọn núi ở miền Nam xa xôi đã vượt ra ngoài cái tư duy và tâm thức thông thường về thế giới của một người Trung Quốc có học thức vào thời Đường. Biển Trang là vịnh Bắc Bộ bây giờ. Trong bài thơ này, tác giả pha trộn lời tán thưởng cái di sản đặc biệt của phương Nam với tâm trạng u hoài về bi kịch của cuộc đời. Cảm tưởng bị lạc lõng, mất phương hướng, không muốn tin vào hiện trạng, cộng với sự hoang mang là nỗi niềm chung của những kẻ bị lưu đầy. Tuy nhiên, không phải là tất cả các quan đời Đường đều bị ép buộc hay phải miễn cưỡng xuống Nam, và cũng không phải là tất cả đều coi nơi họ lưu trú là niềm bất hạnh mà họ phải cam chịu để chuộc tội. Ngược lại, nhiều người lại thấy thích thú khi sống ở miền Nam nên quyết định ở lại đây vĩnh viễn. Sau này chúng ta sẽ thấy một Tiết Độ Sứ vào thế kỷ 9 đã quyết định ở lại miền Nam và gây dựng nên một gia đình mà những thế kỷ sau này đã đạt được nhiều danh tiếng trong chính quyền Việt Nam.

http://damau.org/archives/5400

Keith Weller Taylor

Professor
Vietnamese Studies

380 Rockefeller Hall
(607) 255-3237
kwt3@cornell.


Keith Weller Taylor-việt nam khai quốc CIV (1-6)

Keith Weller Taylor-việt nam khai quốc CIV (1-


việt nam khai quốc: địa phương tự chủ trong thế kỷ VI (chương 4, phần 1)

Khai Quoc Pagoda

Chùa Khai Quốc được xây dựng từ thời Lý Nam Đế ( Lý Bí) nay đổi tên thành Chùa Trấn Quốc, nằm trên bán đảo nhỏ của hồ Tây.

NHÀ LƯƠNG XUỐNG MIỀN NAM

Vào thế kỷ thứ 6, do việc kiểm soát lỏng lẻo của nhà Lương, hoài bão độc lập tự chủ của Việt Nam lại được trải nghiệm qua các động thái nhằm định hình tư thế chính trị thấm đậm màu sắc bản xứ của họ. Ngay khi Lương triều tìm cách tạo áp lực chính trị từ từ lên miền Nam thì họ đã vấp phải cuộc nổi dậy của Lý Bí vào những năm 540. Mặc dầu bị Trần Bá Tiên đánh bại nhưng phong trào độc lập do Lý Bí khởi xướng vẫn tiếp tục phát triển khi Trần Bá Tiên phải quay về phương bắc để lập triều đại nhà Trần của Trung Quốc và các vùng miền Nam lại được cai trị bởi các thế lực địa phương. Mãi đến cuối thế kỷ 6, khi nhà Tùy lên thay nhà Trần, bắc triều lại mở rộng quyền lực của họ xuống miền Nam.

Giữ ngôi được một thời gian dài (502-549), Lương Vũ Đế của Trung Quốc, nổi tiếng là một vị vua sùng đạo Phật và ưa thích văn chương, đã giao phần lớn công việc triều chính cho các quan cận thần. Vào lúc đó vấn đề chính yếu mà nhà Lương phải đối phó ở miền Nam là sự vô hiệu quả của các thứ sử vì sau khi được triều đình bổ nhiệm, các viên thứ sử này đã thông đồng với các gia đình có thế lực ở miền Nam nơi mà tư thế chính trị địa phương ngày một mạnh thêm bởi nền kinh tế phồn thịnh qua các quan hệ thương mại với các xứ ở vùng biển Nam Hải.

Năm 522, Lương triều ra lệnh đúc tiền mới vì thấy rằng ở Châu Quảng và Châu Giao, vàng và bạc vẫn được dùng làm bản vị trong mậu dịch thay vì dùng đồng tiền chính thức của triều đình đang lưu hành ở tất cả những nơi khác. Hơn 20 năm sau đó lại có lệnh đúc tiền mới khác nhưng tình trạng ấy vẫn không thay đổi và hai châu Quảng và Giao vẫn cứ tiếp tục sử dụng vàng và bạc trong mậu dịch. Điều này cũng không có gì đáng ngạc nhiên nếu xét theo sự phân cách về địa lý của miền Nam so với những nơi khác. Tính cho đúng Quảng Châu và Giao Châu đều là đất ở ” bên kia những ngọn đèo” do đó kinh tế của hai châu này, theo thiên nhiên, đúng ra là một phần thuộc thế giới biển ở Đông Nam Á.

Vừa mưu toan đồng nhất hoá nền kinh tế của toàn vùng đô hộ bằng cách ban hành những đạo luật mới về tiền tệ, Lương triều còn tìm cách kiểm soát trực tiếp hơn nữa những địa phương xa xôi ở miền Nam bằng cách tăng thêm nhân số các thứ sử trấn nhiệm. Làm như thế thì các thứ sử có thể bị kém hiệu năng so với thời xưa; nhưng Lương triều cho rằng nếu tăng con số các thứ sử lên họ có thể duy trì được việc kiểm soát các miền hẻo lánh. Vì lý do đó Lương triều tìm mọi cách để dần dần nới rộng quyền lực xuống phương Nam và những châu cũ lại bị chia nhỏ hơn nữa để lập thêm những tỉnh mới. Nhìn bề ngoài, hệ thống cai trị mới có vẻ đã làm gia tăng được sự kiểm soát của Lương triều ở các địa phương nhỏ ấy, nhưng thật ra điều này giản dị chỉ là sự chính thức thừa nhận rằng có những trung tâm quyền lực mới mọc lên tại các địa phương.

Đầu năm 507, Quế Châu được thành lập ở phía Tây Quảng Châu. Nhưng phải đợi đến năm 523 thì việc cải tổ bằng cách chia nhỏ các châu mới thức sự rõ nét ở miền Nam với việc Quảng Châu lại bị chia ra nữa để lập thêm 4 châu mới; còn quận Cửu Chân và Cửu Đức ở phiá Nam, lại được tách ra để lập châu Ái. Có ít nhất là 13 châu mới đã được thành lập ở những nơi mà trước kia là Quảng Châu và Việt Châu trong mưu toan củng cố hệ thống chính trị của Lương triều. Năm 535, châu Hoàng lại được thành lập dọc theo bờ biển hoang vu tại phía Bắc đồng bằng sông Hồng. Quá về phía Nam, châu Đức bị tách ra từ quận Cửu Đức cũ, và thêm 2 châu nữa là châu Lý và châu Minh được thành lập ở mãi xa gần vùng biên giới với Lâm Ấp.

Mục đích của Lương triều khi lập những châu mới ở những vùng mà học chưa kiểm soát được, trước là gián tiếp xác nhận chủ quyền cai trị những vùng đó, và kế đến là khuyến khích dân địa phương tuân theo luật pháp bắc triều chứ không dựa trên căn bản về diện tích và dân số nếu ta đem so sánh Giao Châu với Ái Châu hoặc Đức Châu. Còn châu Hoàng và hai châu Lý và Minh, thì không cần bàn đến vì rõ ràng các châu này không thể coi như là các đơn vị có tầm quan trọng ngang nhau.

Quyền hành ở hững châu có tính cách chiến lược nhất được giao cho những người trong hoàng tộc bắc triều. Năm 541, hai người cháu của Lương Vũ Đế được phong làm thứ sử hai châu nòng cốt là Giao và Quảng. Những châu kém quan trọng được giao cho những người ở cấp thấp hơn, kể cả những người thân thuộc hoặc vây cách của các gia đình thế lực ở địa phương. Hậu quả của chính sách này là sự xung đột, tranh chấp về quyền lợi mà trước đây thường xảy ra giữa các gia đình địa phương với triều đình thì nay trở thành một định chế với sự thừa nhận những lãnh đạo địa phương là thứ sử các châu nhỏ. Vũ đài chính trị xưa cũ khi một ông thứ sử do bắc triều đình bổ nhiệm phải đối đầu với một hay nhiều gia đình địa phương có thế lực nay biến thành sự cạnh tranh giữa các ông thứ sử lớn và nhỏ.

Một mục đích nữa của việc thành lập thêm nhiều châu nhỏ đó là làm dân chúng quên đi các mong mỏi giành độc lập cùng với việc khuyến khích họ đi tìm các địa vị và bổng lộc trong vòng trật tự tại Lương triều. Nhưng ngặt một nỗi là bắc triều không có đủ các công việc và chức tước để thoả mãn tất cả những tham vọng đang lên của các địa phương miền Nam. Đã không lấp được khoảng trống giữa triều đình và địa phương thì chớ, phương thức mới này còn làm gia tăng ý tưởng nổi loạn. Khi quen thuộc với thể chế bắc triều nhiều rồi, những lãnh đạo địa phương lại cảm thấy không có gì đáng phải sợ hãi nữa và lại còn có ý muốn thay cái đang có bằng cái khác của chính họ.

Để tránh nguy hiểm này, các khu vực quân sự đặc biệt ở miền Nam được thành lập và được giao cho các vị tướng bắc triều để thực thi luật pháp triều đình. Trước nhất là ông thứ sử của quận quan trọng nhất nằm trong địa khu nào thì kiêm luôn chức vụ quân sự ở địa khu ấy. Một thí dụ là vào năm 509, thứ sử Quảng Châu kiêm luôn quyền cai quản quân sự bốn châu thuộc miền Nam là Quảng, Quế, Việt, và Giao. Nhưng về sau, việc chỉ huy các khu quân sự này lại được đổi thành các bộ chỉ huy riêng rẽ do các tướng giỏi chỉ huy.

Những tướng chỉ huy các khu quân sự này thường là tay chân bộ hạ của các vị hoàng thân được bổ vào chức vụ thứ sử các châu quan trọng nhất. Trong các vị tướng chỉ huy đó có Trần Bá Tiên đến miền Nam cùng với Tiêu Ánh là cháu của Luơng Vũ Đế. Tiêu Ánh trở thành Thứ Sử Quảng Châu và Trần Bá Tiên thành quan Đốc Hộ cai trị vùng sông Tích và đặt bản doanh ở Quảng Tây ngày nay. Trần Bá Tiên là một tướng giỏi và đầy tham vọng. Từ những công trạng lập được ở miền Nam mà sau này Trần Bá Tiên lập ra triều nhà Trần, triều đại cuối cùng trong số các triều đại của Trung Quốc đóng đô ở Hoa Nam.

LÝ BÍ

Ly Bon

Chân Dung Lý Bí (Lý Nam Đế)

Lý Tắc, người nắm quyền kiểm soát Giao Châu năm 505 và sau đó đánh bại các đối thủ của ông vào năm 516, đã duy trì được quan hệ chặt chẽ và hữu nghị với bắc triều. Vào thời gian đó có nhiều người thuộc các gia đình địa phương danh giá ở miền Nam được khuyến khích tiến thân bằng cách xin vào làm việc cho Lương triều ở miền Bắc. Trong những người này có Tinh Thiệu là người văn hay chữ tốt nhưng Thái Tông, viên quan lo về nhân sự Lương triều, lại không giao Tinh Thiệu chức vụ mà ông xin, viện lẽ trong gia đình Thiệu chưa có ai là danh sĩ nổi tiếng! Thay vào đó Thái Tôn cho ông giữ chân giám sát một trong những cổng ra vào Hoàng Thành. Tinh Thiệu cho rằng mình bị coi thường nên bỏ về Giao Châu cùng với một người cùng cảnh ngộ là Lý Bí vào khoảng năm 523 khi mà các châu mới đang được thành lập ở miền Nam.

Tổ tiên Lý Bí thuộc trong số những người Trung Quốc di cư tị nạn xuống miền Nam để trốn những rối ren bất ổn do loạn Vương Mãng (9-23 SCN). Đến thế kỷ thứ 6, thì họ Lý đến định cư ở bờ Bắc sông Hồng, tại Vũ Bình gần Tân Xương, dưới chân núi Tam Đảo. Đây là vùng chiến lược nằm gần vùng biên giới đất cao của đồng bằng sông Hồng. Từ nơi này họ Lý đã củng cố địa vị và trong số họ đã có người lên tới chức “Phụ Tá Quân Sự”. Cũng giống như Tinh Thiệu, lúc bắt đầu sự nghiệp, Lý Bí lên miền Bắc và được cho giữ một chức vụ ở triều đình, nhưng vẫn “không được thoả mãn ước vọng”. Thế là Lý Bí trở về Giao Châu và được bổ làm Giám Quan ở Cửu Châu để rồi sau đó ông theo các vị anh hùng của các châu khác nổi dậy đòi quyền độc lập từ tay bắc triều.

Những ước vọng của Lý Bí lúc đó được nhiều người hậu thuẫn và có nhiều ưu thế bởi tình hình chính trị rối ren ở Giao Châu. Thứ Sử Giao Châu lúc ấy là là Tiêu Tư, cháu của Lương Vũ Đế, bị dân chúng địa phương rất oán ghét vì những hành động vơ vét, bóc lột và tàn bạo của y. Năm 541, Lý Bí được Triệu Túc, một trong số những thủ lãnh ở Chu Diên, khâm phục tài đức của ông nên đem quân bản bộ về theo. Biết được chuyện này, Tiêu Tư vội vã tìm cách hối lộ Triệu Túc để có đường chạy lên Quảng Châu, nơi cháu ông là Tiêu Ánh đang làm Thứ Sử.

Nhắc lại vùng Chu Diên, thời nhà Hán, nằm ở khoảng giữa sông Đáy và sông Hồng nơi mà hai sông này phân nhánh. Tương truyền Thi Sách, chồng của Bà Trưng cũng quê ở đó. Qua bao thế kỷ cái tên Chu Diên dường như cứ dần xuôi mãi xuống vùng hạ lưu và đến thế kỷ 6, thì nó đã đến gần bờ biển, nơi mà sông Hồng gặp thủy triều lên xuống. Phần lớn đất Chu Diên là đầm lầy, không trồng trọt gì được vì hệ thống đê điều chưa được đắp xuống đến đấy. Tuy nhiên những tập tục từ thời Bà Trưng, mặc dù chỉ còn là những ký ức không rõ nét, nhưng vẫn tiềm tàng trong số những huyện được lập ở quá về phiá Bắc. Do đó các thủ lãnh địa phương ở Chu Diên vẫn có thể khơi dậy trong lòng toàn thể dân chúng của họ một ý chí quật khởi theo tinh thần Hai Bà Trưng khi cần đến.

Sử Trung Quốc đã không nhắc đến Triệu Túc mà chỉ ghi lại các sự việc liên quan đến Lý Bí và cố vấn của ông là Tinh Thiệu, vì xét về mặt chính trị người Trung Quốc muốn chứng tỏ rằng đây là hai quan chức của bắc triều đình đứng lên nổi loạn chứ không phải dân địa phương. Nhưng uy quyền của Triệu Túc rõ ràng được căn cứ trên tài học của ông điều mà vượt ra ngoài tầm nhận thức của Trung Quốc. Theo sử liệu Việt Nam, việc Triệu Túc nổi lên là lý do trực tiếp buộc Tiêu Tư phải bỏ trốn ngay khỏi Giao Châu.

Điều này dễ hiểu nếu ta nhớ lại rằng cuộc nổi loạn của Lý Bí bắt đầu từ Cửu Đức, nơi mà ông làm Giám quan. Có lẽ Lý Bí đã từ đó tiến lên phía Bắc qua châu Ái. Chu Diên ở trên biên giới với châu Ái và là cửa ngõ tiến vào đồng bằng sông Hồng. Khi Triệu Túc mở cửa Chu Diên để Lý Bí kéo quân vào đồng bằng sông Hồng thì Lương triều hiểu ngay rằng họ không còn hy vọng gì nữa nên Tiêu Tư phải mua chuộc để tìm đường chạy trốn khỏi Giao Châu. Trong khi Trung Quốc nhìn thấy những rắc rối về chiến lược trong sự lãnh đạo của Triệu Túc họ lại cố tình làm ngơ không biết ông là ai để chỉ nói đến Lý Bí là loại nguời đã được phân hạng theo đường lối chính trị có lợi cho Bắc triều.

Phản ứng của Lương triều đình về cuộc nổi loạn của Lý Bí rất mau chóng. Tôn Chung, Thứ Sử Cao Châu, và Lư Tử Hùng, Thứ Sử Tân Châu được lệnh đem quân đi dẹp Lý Bí. Cao Châu và Tân Châu là hai trong số những châu mới được lập ra từ châu Quảng cũ mà nay nằm về phiá Tây Quảng Châu. Tôn Chung và Lư Tử Hùng đều là dân địa phương và Lương triều tìm cách đẩy họ vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan một bên là phải biểu dương lòng trung thành với triều đình bằng cách tiến quân một bên biết rằng việc tiến quân vào miền biên giới này nhất định có nhiều rủi ro.

Đầu xuân năm 542 khi mùa mưa sắp bắt đầu, Tôn Chung và Tử Hùng yêu cầu được hoãn binh đến mùa Thu, khi những nguy cơ về sốt rét và những chứng bệnh khác do gió mùa gây ra giảm bớt. Nhưng lời yêu cầu của họ lập tức bị Tiêu Ánh bác bỏ, và Tiêu Tư lại thúc dục tiến quân. Đội quân miễn cưỡng này tiến tới Hợp Phố thì bị chặn đường và khoảng từ 60% đến 70% quân sĩ bị thiệt mạng, không rõ là vì sơn lam chướng khí hay vì bị quân Lý Bí phục kích. Quân Lương triều chạy tan tác và hậu quân hỗn loạn không dám tiến tới.

Tôn Chung và Lư Tử Hùng rõ ràng là nạn nhân của một sự chuẩn bị vội vàng do cấp trên bắt buộc. Có lẽ vì muốn gỡ lại danh dự bị tổn thương nên Tiêu Tư báo cáo về triều đình là hai tướng cầm quân thông đồng với giặc nên dẫn đến thảm bại. Sau khi báo cáo, Tiêu Tư được lịnh triều đình triệu hồi Chung và Hùng về Quảng Châu để xử tử hình.

Việc xử tử hai tướng này đã gây một làn sóng phản đối rất mạnh mẽ. Các con và cháu của Tôn Chung và Tử Hùng chiêu tập được một đạo quân bản bộ rất lớn, bắt được viên Đốc Hộ địa phương và tấn công Quảng Châu với ý định giết chết Tiêu Tư và Tiêu Ánh để báo thù. Nhưng Trần Bá Tiên đã kéo quân bản bộ 3.000 người đến kịp thời nên cứu thoát được Tiêu Ánh và tái lập trật tự ở Quảng Châu.

Sau chiến thắng này Trần Bá Tiên được tưởng thưởng với những chức vụ mới và ngày càng nổi tiếng hơn khi Tiêu Ánh qua đời sau đó không bao lâu. Còn tông tích Tiêu Tư thì không thấy nhắc đến nữa. Tình hình bấp bênh ở khắp miền Nam sau những biến cố trên không cho phép Lương triều mở một chiến dịch lớn lao nào khác để đánh dẹp Lý Bí ở Giao Châu trong một thời gian khá dài. Tuy nhiên Lương triều vẫn gửi đi những lực lượng nhỏ để dọ thám và quan sát tình hình Giao Châu.

Đầu mùa hè năm 543, quân Lâm Ấp lại xâm nhập Cửu Đức, không biết có phải là do nhà Lương xúi dục hay chỉ là một phản ứng tự nhiên của Lâm Ấp những sự rối ren chính trị ở phía Bắc. Lý Bí sai tướng Phạm Tu xuống Cửu Đức đánh quân Lâm Ấp nhưng thua phải rút về.

Thấy tình hình có vẻ sáng sủa hơn vì những đe dọa từ Bắc xuống và từ Nam lên đã tạm yên nên đầu năm 544 Lý Bí bắt đầu tổ chức giang sơn bằng việc tự xưng là hoàng đế Nam Việt. Nam Việt là nghĩa tiếng Việt từ chữ Nan Yueh. Lý Bí muốn gợi nhớ lại hình ảnh của Triệu Đà mà 7 thế kỷ trước đã bất chấp triều Hán, tự xưng là hoàng đế Nan Yueh. Lý Bí đặt tên nước là Vạn Xuân, và lấy niên hiệu là Thiên Đức. Ông thiết lập hệ thống triều đình và xây cung Vạn Thọ. Tinh Thiện được giao cho phụ trách dân sự và Phạm Tu phụ trách quân sự; Triệu Túc làm Thái Phó.

Thái Phó là một trong các tước gồm ba vị vương hầu có từ thời đại nhà Châu thời thượng cổ để cố vấn cho nhà vua về những điều tốt xấu trong nước. Đến thời Hậu Hán thì chỉ còn một người được phong chức Thái Phó. Nhưng đến thời nhà Tấn, lại quay lại lề lối cũ là có cả ba vị, và tất cả những triều đại về sau ở miền Nam cũng đều theo lệ đó. Sự xuất hiện của chức vị Thái Phó ở Việt Nam thế kỷ 6 cho thấy Triệu Túc được coi như quân sư hàng đầu của Lý Bí.

Xuất thân là giám quan ở biên thùy khi rời miền Nam lên kinh đô Lương để tìm một vị trí trong bắc triều, nhưng Lý Bí đã bất mãn quay về để lại làm việc cũ. Xét sự thông thạo của những người như Lý Bí và Tinh Thiện về triều đình và chính quyền Lương, lẽ tự nhiên là họ muốn được độc lập nhưng rập theo khuôn mẫu Trung Quốc. Ý tưởng có một vị hoàng đế, môt niên hiệu và một cái tên văn vẻ để đặt cho đất nước đều bắt nguồn từ những gợi ý từ triều đình Trung Quốc cả.

Trong khi đó, Triệu Túc rõ ràng là người gốc ở vùng đất thấp trong đồng bằng sông Hồng. Không có chứng cứ gì chứng mình rằng ông là một quan chức của triều đình Lương cả nhưng chắc chắn ông là chủ một gia đình địa phương có thế lực và có ảnh hưởng mạnh ở Chu Diên. Mặc dù Chu Diên nằm ở ven phiá Nam của một trung tâm nông nghiệp, nhưng chắc cũng đã bị bao trùm bởi văn hoá Phật Giáo của Việt Nam.

Họ Đỗ từng cai trị Việt Nam trong nửa cuối của thế kỷ 4 và đầu thế kỷ 5, thiết lập cơ ngơi ở Chu Diên. Đến cuối chương này, chúng ta sẽ thấy xuất hiện nhà sư Phật Giáo, danh tiếng nhất của Việt Nam ở cuối thế kỷ 6, là người gốc ở Chu Diên và cũng mang họ Đỗ. Vậy chúng ta có lý để tin rằng Triệu Túc tiêu biểu cho nền văn hoá Phật Giáo ở đồng bằng sông Hồng.

Là Thái Phó, Triệu Túc có thể đã gây được ảnh hưởng của Phật Giáo lên triều đình Lý Bí. Có bằng chứng cho thấy là một ngôi chùa Phật Giáo với bức tượng “Amitabha”, cao gần 2 mét rưỡi, ngồi trên bệ, được tạc bằng đá, và xây dựng bởi Lý Bí. Kiểu dáng của tượng Amitabha mà nay vẫn còn, rất giống với những tượng được thấy ở Long Môn, Bắc Trung Quốc thuộc thế kỷ 6.

Ông Nguyễn Phúc Long, một sử gia Việt Nam đương đại, cho rằng người như Tinh Thiệu đã từng phục vụ ở triều đình Lương tại Nam Kinh tất đã đem kiểu này từ Trung Quốc về Việt Nam. Bức tuợng vĩ đại được tạc nên để khánh thành triều đại Lý Bí đầu tiên ở Việt Nam. Tượng được đặt ở trong một ngôi chùa tên là Vạn Phúc mà không đề ngày tháng xây dựng, nhưng sử gia Nguyễn Phúc Long cho là ngôi chùa này được xây đựng cùng thời với cung Vạn Thọ. Phúc và Thọ là những danh từ tốt đẹp được dùng nhiều trong văn chương Việt Nam và Trung Quốc thời thượng cổ. Dù sao thì việc lấy Phật Giáo làm nền tảng hậu thuẫn cho một truyền thống quân chủ và độc lập là một trong những chủ đề quan trọng trong lịch sử Việt Nam sau này, đặc biệt là từ thế kỷ 10 đến 14. Chủ đề này có thể đã bắt rễ từ các phong trào độc lập trong thế kỷ 6 và cũng có thể được truy nguyên từ thời Sĩ Nhiếp.

Lý Bí tổ chức triều đình theo phong cách Trung Quốc và có lẽ chính ông là vị vua Việt Nam đầu tiên đỡ đầu cho Phật Giáo vì có nhiều bằng chứng cho thấy nhà vua rất tôn trọng tinh thần thờ phụng của toàn dân chúng. Những di sản và tài liệu về các đình chùa cho thấy Lý Bí đã cho xây một ngôi đền thờ và truy phong chức tước cho Bà Triệu, người nữ anh hùng lãnh đạo cuộc nổi dậy giành độc lập vào năm 248. Ngôi đền thờ này vẫn còn tọa lạc ở vùng đất xưa kia là Cửu Chân hay Ái Châu. Có lẽ Lý Bí cũng biết rằng muốn bắc tiến thì phải đi qua châu Ái như Bà Triệu đã làm trước đó nên sau khi dựng cờ khởi nghĩa ông đã cho xây ngôi đền này, trước là ghi nhớ công lao người nữ anh hung, sau là kích thích tinh thần quân sĩ.

Mặc dù trị vì vỏn vẹn chỉ được vài năm, điều vua Lý Bí luôn quan tâm là trấn thủ chặt chẽ vùng biên thùy và giữ cho dân chúng thái bình. Tài liệu còn sót lại duy nhất nói về việc này là vài dòng ngắn ngủi sau đây viết về Lý Phục Man, một trong các tướng lãnh của Lý Bí:

“Ông (Phục Man) phụ tá vị vua ở phương Nam này với tư cách là một đại tướng quân và nổi tiếng là một người trung thành và dũng cảm. Ông được giao phó cai quản hai vùng thung lũng Đỗ Động và Đường Lâm; bọn Lao [man di] rất sợ ông và không dám gây rối, ông đã giữ được thái bình trong khắp vùng”.

Lý Phục Man được dân chúng thờ phụng sau khi ông mất và được truy phong sau này bởi một vị vua Việt Nam ở thế kỷ 11. Đỗ Động và Đường Lâm được nhắc đến trong các sử liệu Việt Nam ở thế kỷ 10 như là một khu vực nằm dọc theo bờ nam sông Hồng, tây bắc Hà Nội ngày nay. Nhiệm vụ quan trọng của Lý Phục Man là canh giữ bờ nam sông Hồng và bên kia sông là quê hương của Lý Bí nơi ông có trách nhiệm canh giữ bờ phiá bắc để cả hai cùng chung lưng khoá chặt con đường chiến lược dẫn vào vùng núi non và chế ngự vùng đồng bằng khỏi bị các bộ lạc trên núi xuống quấy rối. Những bộ lạc kể trên này được người Trung Quốc và Việt Nam thời đó gọi là Lao; nhưng chân tướng đích thực của họ thì không được rõ, dù được cho là có liên hệ đến các dân tộc thuộc ngữ hệ Thái.

Kinh đô của Lý Bí không được nói rõ trong sử liệu, nhưng chúng ta có thể đoán chính là vùng Gia Ninh, nằm cạnh quê nhà của Lý Bí nơi mà sông Hồng được các sông nhánh khác đổ vào. Tương truyền rằng Gia Ninh, một trung tâm chính trị thiên nhiên ở ngay cửa ngõ vào đồng bằng sông Hồng, là nơi các vị vua Hùng đã từng cai trị Việt Nam rất lâu trước đó.

Trong khi Lý Bí và phụ tá Lý Phục Man canh giữ vùng núi và duy trì thanh bình ở miền đồng bằng thì những tướng quân tin cẩn khác như Phạm Tu, canh giữ vùng biên thùy giáp Lương và giáp Lâm Ấp. Nền hành chánh ở vùng đồng bằng có thể do Tinh Thiệu giám sát từ trị sở của ông trong thành Long Biên. Còn gia đình Triệu Túc, chắc chắn là một gia đình có thanh thế khắp vùng đồng bằng sông Hồng.

Không may cho Việt Nam những hoạt động đầu tiên nói trên của họ để tiến tới độc lập đã bị phá vỡ bởi tài cung kiếm và những tham vọng đế vương của Lương tướng Trần Bá Tiên. Tuy bị bắc triều đè bẹp như thế các phong trào nổi dậy giành độc lập vẫn tiếp tục hoạt động nhiều chục năm sau để luôn nhắc nhớ người Việt rằng họ là một dân tộc riêng biệt. Chính tinh thần độc lập luôn được hun đúc ấy đã đóng góp vào việc giành lại nền độc lập cho Việt Nam sau này.

Lại nhắc lại chuyện Lý Bí, vào năm 545, Lương triều đã phần nào ổn định được tình hình ở phuơng Nam nên lại chuẩn bị để tấn công Lý Bí. Dương Phiêu được phong Thứ Sử Giao Châu và Trần Bá Tiên chịu trách nhiệm về quân sự. Một đội quân gồm phần nhiều là các chiến binh dày dạn kinh nghiệm được tập hợp tại châu Quảng và tiến về phiá Tây để nhập chung với quân của Tiêu Bột, Thứ Sử Định Châu, nay là Quảng Tây. Vì cha của Tiêu Bột là anh em họ với vua Lương nên lời nói của ông rất có ảnh hưởng. Hơn nữa, ở Định Châu đã lâu, Tiêu Bột lại được ở vào địa vị để có thể hiểu biết rõ tình hình ở miền Nam xa xôi, nênTiêu Bột nhắc lại những nỗi sợ hãi của các quân sĩ khi phải tiến vào miền xa xôi ấy và khuyên Dương Phiêu hãy bỏ cuộc viễn chinh và tìm mưu lược khác. Dương Phiêu bèn triệu tập một cuộc họp để hội ý các quan quân nhà Lương. Chính những phát biểu cương quyết của Trần Bá Tiên trong hội nghị này đã dẫn đến quyết định tiếp tục đem quân tấn công Lý Bí và chứng tỏ rằng mộng đế vương của Trần Bá Tiên sẽ thành hiện thực sau này:

Giao Chỉ đã nổi dậy làm loạn và chống lại triều đình, gieo rắc hoang mang và rối loạn sang nhiều châu khác mà vẫn không bị trừng trị năm này qua năm khác. Định Châu muốn hưng binh bí mật tiễu phạt để giải quyết tình hình thay vì tấn công trực tiếp nhưng chúng ta đã nhận được lệnh vua để trừng phạt một tội phạm thì chúng ta phải thi hành lệnh ấy dù chết cũng cam. Nếu chúng ta cứ loanh quanh mãi mà không tiến quân thì càng làm tăng uy thế của loạn quân và làm mất tinh thần quân sĩ chăng ?

Thuyết phục bời những lời lẽ hùnng hồn của Trần Bá Tiên, Dương Phiêu phong y làm tướng tiên phong và ra lệnh tiến quân. Gần cuối mùa hè năm 545, quân Lương tiến vào giang sơn Vạn Xuân. Lý Bí huy động quân lên tới 30.000 người để nghênh chiến khi địch tiến tới đồng bằng sông Hồng. Quân Lương triều tiến vào vào bằng đường nào không thấy ghi trong sử, nhưng dựa theo các chi tiết của cuộc chiến, có thể là bằng đường thủy.

Bị Trần Bá Tiên đánh bại ở vùng đất thấp dưới Chu Diên, Lý Bí liền rút về cửa sông Tô Lịch, vùng ven biên Hà Nội bây giờ. Nơi đây, ông tìm cách chận đánh Bá Tiên với một hệ thống phòng thủ xây đắp vội vàng nên lại thua và phải rút về cố thủ và sau đó bị quân nhà Lương bao vây trong thành Gia Ninh.

Đến năm 546, thành Gia Ninh bị hạ. Nhưng Lý Bí đã chạy thoát được vào vùng núi gần đó, tá túc với các bộ lạc Lao. Từ đây ông lại cố gắng tập hợp một số quân sĩ cùng với một số các thủ lãnh bộ lạc Lao để đến mùa thu năm ấy, ông lại kéo 30.000 quân xuống đồng bằng quyết một trận sống mái với quân nhà Lương.

Lý Bí đóng quân ở bờ hồ Điển Triết trên biên giới quận Tân Xương giữa vùng núi và đồng bằng. Hồ Điển Triết là một hồ điều tiết nước thiên nhiên, cung cấp nước cho các con sông nằm quanh trong mùa cạn và nhận nước từ những sông này vào mùa lũ. Để chuẩn bị, Lý Bí cho quân sĩ đóng nhiều thuyền đậu đầy mặt hồ. Quân Trần Bá Tiên đóng ở vùng cửa hồ và quan sát các hành động chuẩn bị của Lý Bí mà thêm sợ hãi. Cảm thấy giờ phút quyết liệt đã đến, Trần Bá Tiên vội họp các tướng sĩ lại và nói:

Ta cầm quân đã bao lâu nay rồi và quân sĩ hết sức mệt mỏi cả về tinh thần lẫn thể xác. Hơn nữa, chúng ta ở đây trơ trọi không có quân cứu viện mà lại tiến quá sâu vào đất địch. Nếu không chiến thắng được trận này nữa, làm sao có thể hy vọng sống mà về? Nay vì lẽ địch đã mấy lần thua chạy, tinh thần của chúng tất giao động và bọn man di Lao lại không có kỷ luật và không tin cậy được, nên sẽ dễ dàng cho chúng ta tận diệt. Chúng ta chỉ còn một cách là đánh cho đến hơi thở cuối cùng, tập trung tất cả sức mạnh của ta để chiến thắng. Không có lý do gì trì hoãn nữa. Giờ quyết liệt đã điểm.

Nghe thấy thế các quan quân nhà Lương đang lo lắng đều lấy làm sững sờ và không biết trả lời ra sao vì họ biết rằng, mặc dầu Lý Bí đã thua mấy trận nhưng tài lẩn tránh của ông thật tài tình, nên rất có thể Lý Bí sẽ tồn tại được lâu hơn sức mạnh tấn công của Lương quân. Việc Trần Bá Tiên khẳng định rằng “tinh thần dân quân [ của Lý Bí] giao động” là duy ý chí vì chỉ dựa trên lòng trung thành của ông với bắc triều.

Về phía vua Việt Nam Lý Bí, vì thời gian trị vì quá ngắn ngủi nên chưa tạo được lòng trung thành sâu đậm trong dân chúng Việt. Hơn thế nữa, ý tưởng độc lập đối với triều đình phương Bắc có lẽ còn quá mới để có thể nhiều người lĩnh hội được. Gần một năm đã trôi qua từ khi Lý Bí phải rút lui vào vùng núi nên sự trở về của ông chắc đã nâng cao được tinh thần của người Việt và họ hy vọng rằng cuộc phản công lần này có thể sẽ quét sạch được đạo quân Lương đơn độc ra khỏi bờ cõi.

Đoạn trích lời hiệu triệu của Bá Tiên ở trên cho thấy ở một mức độ nào sự thành công của Lương quân tùy thuộc vào tư cách của một cá nhân và cũng ở một mức độ nào đó các lời hiệu triệu này đã giúp Lương quân vượt qua được những thử thách của các cuộc nổi dậy đang dấy lên như sóng cồn ở miền Nam. Những cái gọi là “sự thất bại” của Lý Bí được ghi trong sử liệu Trung Quốc thật ra có thể chỉ là những lần rút lui chiến lược của ông nhắm mục đích nhử cho quân Trung Quốc vào thật sâu trong nội địa, xa hẳn các căn cứ tiếp tế, để rồi đánh cho chúng bị hao mòn vì mệt mỏi. Nếu kế hoạch của Lý Bí đúng là như thế thì sự lì lợm của Bá Tiên chỉ đưa y đến chỗ thất bại mà thôi. Nói theo Ngô Sĩ Liên, có lẽ lòng Trời chưa thuận cho Lý Bí và nước Việt non trẻ, ngay cái đêm mà Trần Bá Tiên hiệu triệu tướng sĩ thì mưa đổ rất nhiều, mực nước sông đột nhiên dâng cao làm cho nước từ các sông tràn thật nhanh vào hồ Điển Triết khiến các ghe tàu của Lý Bí bị rối loạn. Nắm ngay lấy cơ hội ấy, Bá Tiên cho quân xuống thuyền và kéo tràn vào trong hồ giữa bao tiếng hò reo vang trời. Vì không ngờ là nước sông lại tràn vào hồ nhanh như thế nên quân sĩ của Lý Bí bị rối loạn, tan rã hàng ngũ. Lại một lần nữa Lý Bí chạy thoát vào miền núi giữa các bộ lạc Lao và tập hợp lại quân sĩ trong thung lũng Khuất Liễu ở thượng lưu sông Hồng để tiếp tục chiến đấu. Nhưng lần này một trong các bộ lạc người Lao đã bị Trần Bá Tiên mua chuộc nên đã ám hại và gửi thủ cấp Lý Bí về cho Bá Tiên. Năm 547, sau cái chết của Lý Bí, anh lớn của ông là Lý Thiên Bảo trốn thoát được và chạy về bờ biển ở phía nam Cửu Đức. Nơi đây, với sự hậu thuẫn của một thủ lãnh địa phương là Lý Thiệu Long, ông triệu tập được một đạo quân lên tới 20.000 người. Sau khi tiến quân vào Cửu Đức và giết được Trần Văn Giỏi, Thứ Sử của Lương triều, Thiên Bảo tiếp tục đem quân tiến đánh Ái Châu nhưng Trần Bá Tiên đã kéo viện binh đến kịp thời và Lý Thiên Bảo lại phải chạy vào miền núi. Qua các sự kiện trên chúng ta thấy rằng vì tính cương quyết của Bá Tiên nên vương quốc Vạn Xuân non trẻ của Lý Bí đã bị dẹp tan, nhưng vì những rối loạn bùng nổ ngay sau đó ở miền Bắc đã khiến Trung Quốc không thể tiếp tục kiểm soát Việt Nam được nữa.

Việt Nam khai quốc: cục diện thế kỷ thứ vi xét theo sử liệu Trung Quốc (chương 4, phần 2)

Các tài liệu của Trung Quốc và Việt Nam đều có ý kiến trái ngược nhau về các diễn biến lịch sử tại miền Nam vào thế kỷ 6. Trước khi nghiên cứu các sử liệu Việt Nam, chúng ta hãy xem xét cẩn thận các quan điểm trong sử liệu của Trung Quốc để xác định xem mức độ khả tín từ phía sử liệu Việt Nam. Điểm chính là xét đến sự sụp đổ của quyền lực Trung Quốc đã tạo được những khoảng trống để người Việt Nam có thể theo đuổi nền chính trị độc lập của họ trong thời gian này.

Năm 548, sau khi dẹp tan được cuộc nổi dậy của Lý Bí, Trần Bá Tiên quay về với chức vụ cũ của ông là Đốc Hộ Quan ở sông Tích trong tỉnh Quảng Tây bây giờ. Lúc đó, đế quốc Thác Bạt, (tức là triều Bắc Ngụy) đã từng thống trị miền Bắc Trung Quốc trong một thế kỷ rưỡi, đang bị tan rã dưới áp lực của những vị tướng quân Trung Quốc đầy tham vọng và kiểm soát phần lớn vùng đồng quê Trung Quốc. Trong số các vị tướng này có Hầu Cảnh làm Thứ Sử khu vực tỉnh Hồ Nam bây giờ. Năm 547, Hầu Cảnh tuyên bố là ông sẽ trung thành với triều Lương, nhưng qua năm sau, với nội ứng của một số hoàng thân và quan chức Nhà Lương, ông đã công khai tấn công kinh đô Nhà Lương và giết được Lương Vũ Đế vào năm 549.

Việc Hầu Cảnh làm phản ở kinh đô khiến Trần Bá Tiên càng nôn nóng muốn kéo ngay quân về Bắc để đọ sức với kẻ soán nghịch. Vào năm 548 khi đang sắp sửa kéo quân về cứu giá Lương triều thì Bá Tiên được tin Thứ Sử châu Quảng là Nguyễn Cảnh Trọng đang bí mật chuẩn bị theo phe Hầu Cảnh. Thế là xung đột giữa Bá Tiên và Cảnh Trọng nổ ra công khai ngay lập tức. Năm 549, Bá Tiên đánh bại Cảnh Trọng và mời Tiêu Bột làm Thứ Sử Quảng Châu. Như thế là mặt phía Nam đã tạm ổn nên Bá Tiên lại tính đến chuyện Bắc tiến, nhưng ông vẫn biết rằng vẫn còn nhiều khó khăn trước mặt vì trên đường bắc tiến, nằm giữa châu Quảng và vùng núi rừng ở phía Bắc ngăn chia lưu vực sông Tích và sông Dương Tử, là châu Hàng. Khi Bá Tiên mang quân đánh Lý Bí năm vào 545 thì có Lan Khâm, thứ sử Hàng Châu và người phụ tá rất tin cậy của ông ta là Âu Dương Nguy đi theo. Khi Lan Khâm chết vì bệnh trên đường đi đến Giao Châu thì Âu Dương Nguy được phép đem thi thể Lan Khâm về Hàng Châu. Sau đó, Âu Dương Nguy được lệnh ở lại canh giữ Hàng Châu để các quan chức tháp tùng Bá Tiên Bắc tiến đánh Hầu Cảnh.

Khi Hầu Cảnh giết được Lương Vũ Đế thì ở miền Nam, các quan chức địa phương tranh nhau nổi lên chiếm quyền và giành đất đai; trong số đó có Lan Dụ là em của Lan Khâm đã chết. Lúc đó Lan Dụ đang làm Thứ Sử Cao Châu và có ý rủ Âu Dương Nguy theo y làm phản nhưng Nguy từ chối. Thấy thế Lan Dụ bèn xua quân đánh Âu Dương Nguy ở Hàng Châu nhưng nhờ có Trần bá Tiên kéo quân đến cứu nguy nên Lan Dụ bị đánh bại. Vì thế sau này Âu Dương Nguy đã giúp Trần Bá Tiên khi ông tiến qua vùng núi Hàng Châu để tiến đánh Hầu Cảnh.

Cũng như đã từng khuyên Trần Bá Tiên đừng đánh Lý Bí, Tiêu Bột lần này lại khuyên Bá Tiên nên kiềm chế nhưng Bá Tiên cũng vẫn không nghe. Năm 550, Bá Tiên thắng một trận lớn ở phía Bắc dãy núi nằm trong tỉnh Giang Tây ngày nay nên được một hoàng thân triều Lương thưởng công bằng cách phong ông làm Thứ Sử Giao Châu. Cần nói thêm rằng rõ ràng Trần Bá Tiên lúc đó không ở Giao Châu nên trong tình hình nhiễu nhương đó những vụ bổ nhiệm của Lương triều chỉ là hình thức.

Năm 551, Trần Bá Tiên lại đánh thắng nhiều trận khác nữa và đến năm 552, Hầu Cảnh bị đánh bật ra khỏi kinh đô và bị giết chết. Nguyên đế, một hoàng thân nhà Lương gốc ở vùng trung lưu sông Dương Tử, lên ngôi và giao phó nửa phần phía Đông Trung Quốc, bao gồm cả kinh đô, cho hai vị tướng quân có uy thế nhất trong đó có Trần Bá Tiên; còn vua thì đóng đô ở thành trì mà bây giờ gọi là Vũ Hán (Hán Khẩu). Miền Nam thì vẫn trong tay Tiêu Bột.

Vào lúc đó việc đầu tiên của Tiêu Bột là dẹp yên một cuộc nổi dậy mới ở Quảng Châu. Việc Lương triều bị suy sụp quyền lực ở miền Nam được kể trong sử Trung Quốc rằng khu vực dưới quyền của Tiêu Bột trải dài ra gần 1.000 dặm, mà dân số đăng ký không quá 30.000 người. Một dặm Hoa thường được tính là 360 bộ, như thế 1.000 dặm Hoa tính ra khoảng 365 dặm Anh gần bằng khoảng cách từ hành dinh của Tiêu Bột ở Quảng Châu đến sát biên giới Giao Châu. Do đó câu nói “1.000 dặm” trong sử liệu Trung Quốc có tính cách khoa trương cả về tâm lý và địa lý. Nếu ta để ý thêm một chút nữa thì câu “chưa đến 1 nghìn dặm” có ngụ ý rằng phạm vi quyền hành của Tiêu Bột hết sức giới hạn.

Tuy là một người hợp tác cũ với Bá Tiên, nhưng Tiêu Bột lại không được Nguyên đế tin cẩn lắm vì thấy ông chiêu mộ và huấn luyện một đạo quân rất lớn. Hòng phá tan mối nghi ngờ của vua, Tiêu Bột đánh liều về triều yết kiến Nguyên đế và sẵn sàng trả lời bất cứ tội trạng nào mà ông bị cáo buộc nhưng Nguyên đế vẫn giả bộ làm ngơ như không biết ông là ai. Đến năm 554, Nguyên đế sai Vương Lâm, một vị tướng danh tiếng ở miền Bắc xuống thay Tiêu Bột. Vương Lâm trú đóng gần một năm nơi ở nơi mà bây giờ là Quảng Tây. Cảm thấy bị sức ép từ triều đình do việc bổ nhiệm và trú đóng của Vương Lâm nên Âu Dương Nguy ngày càng ngả theo ý định làm phản của Tiêu Bột. Khi ấy, Âu Dương Nguy đang cai quản Thủy Hưng một địa điểm chiến lược nằm trên đường từ Quảng Châu lên phía Bắc. Tuy nhiên tình hình căng thẳng giữa Vương Lâm và Tiêu Bột đột nhiên tắt ngấm vì Vương Lâm phải vội quay về Bắc do các biến cố quan trọng diễn ra trên đấy.

Kể từ khi Hầu Cảnh cướp ngôi nhà Lương thì ở Tây Bắc Trung Quốc có xứ Thác bạt còn được gọi là Tây Ngụy, đang lấn chiếm biên giới Bắc và Tây của lãnh thổ Lương và cuối cùng thì Thác Bạt chiếm được kinh đô nhà Lương vào năm 555. Tây Ngụy cũng chiếm phần lớn vùng trung lưu sông Dương Tử mà về sau trở thành triều đại Bắc Chu vào năm 557. Chính vì muốn chống lại cuộc xâm lăng này mà đột nhiên Vương Lâm phải vội quay về Bắc vào cuối năm 554 nhưng không quên để Lưu Nguyên Yển, một bộ hạ thân tín của ông, ở lại Quảng Tây. Lưu Nguyên Yển là người được phong chức thứ sử danh dự Giao Châu vì ông ta chưa đặt chân lên đất Giao Châu bao giờ.

Ngay sau khi Vương Lâm về Bắc thì Tiêu Bột tiếp tục củng cố sức mạnh quân sự. Cuối năm 555, khi Tiêu Bột đang củng cố địa vị ở miền Nam thì Lưu Nguyên Yển lại đem quân trở về Bắc để tìm gặp Vương Lâm. Năm 556, cả Tiêu Bột lẫn Âu Dương Nguy được Trần Bá Tiên thăng chức. Tuy nhiên đến đầu năm sau, khi Bá Tiên đoạt ngôi nhà Lương và chính thức xưng đế nhà Trần, thì Tiêu Bột, vì thuộc dòng giõi hoàng tộc Nhà Lương, đã thẳng thừng tuyên chiến. Tiêu Bột ở lại Thủy Hưng và sai Âu Dương Nguy đem quân lên Bắc để đánh tân vương là Trần Bá Tiên nhưng Âu Dương Nguy bị thua và bị bắt. Tin thua trận vừa về đến Thủy Hưng thì bộ hạ của Tiêu Bột vội vã thủ thân ai lo phận nấy. Trong số các bộ hạ này có Trần Pháp Vũ, đã làm phản và giết được Tiêu Bột. Cũng như trước đó Trần Bá Tiên với chức Thứ Sử danh dự Giao Châu, Lưu Nguyên Yển với chức thứ sử danh dự Giao Châu, Trần Pháp Vũ cũng giữ chức thứ sử danh dự Cửu Đức vào năm 557 mặc dầu ông ta chẳng bao giờ ở Cửu Đức, trừ thời gian theo Trần Bá Tiên đi đánh Lý Bí.

Sau khi Tiêu Bột chết, miền Nam lại rối loạn. Biết được là Âu Dương Nguy cũng có một ít uy danh ở miền Nam nên Trần bá Tiên quyết định thả ông về và bổ ông làm Thứ Sử Hàng Châu kiêm Đô Đốc với quyền hành quân sự trên toàn bộ 19 châu mà trên lý thuyết bao gồm cả hai châu Quảng và Giao. Con của Âu Dương Nguy là Âu Dương Hốt, là người cũng đã từng ở miền Nam, phụ tá cho cha để tìm cách lôi kéo phe Tiêu Bột cũ về quy thuận vì phe này đã rút về Quảng Châu.

Nhưng một tháng sau, Vương Lâm ở trong lưu vực sông Dương Tử lại nổi loạn và miền Nam phải gánh chịu sự cai trị hà khắc của y tới ba năm. Mặc dầu được Tân vương Trần Bá Tiên phong chức vào năm 557, Vương Lâm vẫn ngấm ngầm trung thành với hoàng gia Lương. Được hậu thuẫn của một quan chức ở miền Nam nên năm 558 Vương Lâm tìm cách lôi kéo họ về hẳn phe cánh với ông. Cũng vào năm ấy, Âu Dương Nguy được bổ nhiệm Thứ Sử Quảng Châu, có lẽ vì Trần Bá Tiên muốn mua chuộc lòng trung thành của ông. Khi Trần Bá Tiên mất năm 559, Thứ Sử Quế Châu tức Quảng Tây bây giờ đến quy thuận Vương Lâm nhưng Âu Dương Nguy vẫn trung thành với Bá Tiên và được phong môt loạt chức tước mới và quyền lực cao hơn. Rốt cuộc, đến năm 560, Vương Lâm bị đánh bại và buộc phải về ẩn trốn ở vùng Đông Bắc Trung Quốc. Trong thập kỷ sau, tình hình ở miền Nam được tương đối ổn định dưới quyền cai trị của cha con Âu Dương Nguy.

Tương truyền rằng trong thời gian Vương Lâm nổi loạn, Âu Dương Nguy bí mật nhận được một số vàng từ Viên Đàm Hoãn, lúc đó là Thứ Sử Giao Châu. Âu Dương Nguy đem một phần số vàng ấy chia cho Thái Thú Hợp Phố và phần còn lại ông đem cho con trai mình là Âu Dương Hốt. Việc làm mập mờ này có lẽ có liên quan đến việc tưởng thưởng cho lòng trung thành với Nhà Trần vì ông không theo phe nổi dậy của Vương Lâm.

Khi Viên Đàm Hoãn chết, chức Thứ Sử Giao Châu lại về tay em của Âu Dương Nguy là Âu Dương Thịnh. Chức này của Âu Dương Thịnh lại cũng rõ ràng là một chức danh dự bởi vì hành động duy nhất của ông được ghi lại là việc ông giúp anh ông ta dẹp yên được loạn quân ở Quảng Châu. Điều này gợi nhớ đến vụ bổ nhiệm Trần Bá Tiên làm Thứ Sử Giao Châu năm 550 sau khi Bá Tiên đã rời khỏi miền Nam, và cả vụ ra đi của Lưu Nguyên Yển, Thứ Sử Giao Châu lên miền Bắc để theo Vương Lâm vào năm 555; cùng là chức phong cho Trần Pháp Vũ, Thứ Sử Cửu Đức, người đã giết được Tiêu Bột ở Thủy Hưng năm 557. Những người này thực sự chắc cũng có ít nhiều liên hệ đến Giao Châu, có lẽ là đã tham gia đội viễn chinh của Bá Tiên đi chinh phạt Lý Bí, nhưng tất cả mọi bằng chứng đều cho thấy là họ chỉ giữ chức Thứ Sử danh dự mà thôi.

Năm 563, Âu Dương Nguy qua đời, Âu Dương Dương Hốt lên kế vị. Sử chép Âu Dương Hốt: “Rất oai nghiêm nhưng tử tế với người Bách Việt”. Danh từ Bách Việt được dùng ở đây như một từ tổng quát để chỉ tất cả mọi dân bản xứ ở miền Nam và câu “những người đã sống với người Bách Việt” là chỉ những người Trung Quốc và họ hàng của họ ở miền Nam. Từ sự việc đó, ta có thể cho rằng gia đình Âu Dương đã tạo được một cảnh thái bình tương đối trong khu vực dưới quyền kiếm soát của họ mà rõ ràng là không vượt quá vùng Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay. Năm 567, Thứ Sử châu Định, bây giờ là Hồ Nam, nổi loạn và rủ Âu Dương Hốt theo mình. Tuy Dương Hốt không đóng vai trò gì tích cực trong vụ nổi loạn ngắn ngủi này ông cũng bị Triều Trần nghi ngờ. Năm 569, khi được gọi về triều trình diện, Âu Dương Hốt quyết định không về và công khai làm loạn. Năm 570, ông bị bắt và bị đem chém đầu.

Năm 570 đánh dấu một bước ngoặt nhỏ ở miền Nam. Từ khi Lý Bí nổi dậy vào năm 541, miền Nam luôn luôn ở trong tình trạng bất ổn định. Hoặc nếu có một chút ổn định nào đó thì đều được thi hành bởi những người địa phương có thế lực mạnh, những người biết tránh liên lụy đến những rối ren chính trị ở Bắc, hoặc là biết khéo léo lợi dụng những cơ hội ấy. Đi đầu là Trần Bá Tiên rồi đến những nhân vật lãnh đạo khác ở miền Nam theo sau ông đều công khai nổi loạn.

Sau cái chết của Âu Dương Hốt vào năm 570, triều Trần đặt ra biện pháp tổng quản quyền hành ở miền Nam. Sử chép rằng vào thời đó “những người Lao man di ở Giao Chỉ thường hay tụ tập lại đi cướp phá” và Nguyễn Trác được giao nhiệm vụ giải quyết việc này. Tuy thế Giao Chỉ vẫn liên lạc với Lâm Ấp và việc buôn bán về “vàng, chim trả, ngọc trai, đồi mồi, ngọc quý và những đồ hiếm quý” vẫn phát đạt vì tất cả những “sứ giả” gửi xuống Giao Chỉ, từ đầu đến cuối, chỉ lo tích lũy của cải; riêng có Nguyễn Trác thì không làm như thế, và bỏ về tay không”.

Tin tức quý báu này đã soi sáng quan hệ giữa bắc triều và miền Nam xa xôi. Rõ ràng là những người được bổ nhiệm xuống Giao Chỉ đều chẳng ngó ngàng gì đến nhiệm vụ được giao mà chỉ đi theo nghề buôn bán vì béo bở hơn nhiều. Danh từ “sứ giả” dùng ở đây ngụ ý nói những quan chức nhỏ, cấp dưới không quan trọng. Mặc dù Nguyễn Trác cố chống lại những cám dỗ và lợi lộc ấy và bỏ về, ông đã thành công trong việc tạo được mối liên lạc giữa triều Trần và những ngôi chợ phồn thịnh ở miền biển Nam Hải vì trong những năm có cuộc viễn chinh của ông, các sứ bộ ngoại giao của Phù Nam và Lâm Âp, lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, đã sang tận triều Trần để yết kiến.

Ngoài việc mở lại những tiếp xúc thương mại, sứ mạng của Nguyễn Trác cũng tạo được ít ảnh hưởng ở biên giới. Không lâu sau đó, một người tên là Thái Ngung cũng bị nhà Trần tạm thời trục xuất xuống Giao Chỉ mặc dù sử đã không nói rõ y giữ chức vụ gì trước đó. Cũng vào thời gian đó, lại có một người khác tên là Đại Hoàng có tên trong danh sách các quan chức làm Thứ Sử châu Ninh, một trong hai châu xa lắc mà triều Lương thiết lập ở biên giới Lâm Ấp trước đó. Có lẽ Đại Hoàng đã tháp tùng Nguyễn Trác và được phong chức này để thưởng công; mà cũng có thể y được phong chức này như là một chức danh dự mà chẳng bao giờ ra khỏi triều đình Trần cả. Còn về Thái Ngung, mặc dầu y bị đuổi xuống Giao Chỉ, có thể y lại được giao cho một quan hệ chính thức nào đó với các quyền lực địa phương; mặc dù sử liệu không ghi lại bằng chứng nào rõ rệt về một quan hệ như thế.

Trong hai năm sau khi Nguyễn Trác viễn chinh xuống miền Nam, tức là cho tới năm 572, một tướng quân tên Trần Khắc là nhân vật nổi bật nhất ở miền Nam với tư cách là Thứ Sử Quảng Châu. Trần Khắc sau đó lại được thay thế bởi Phượng Tần, một hoàng thân, cháu của mẫu thân Trần Bá Tiên. Phượng Tần được phong chức Đô Đốc là chức cũ của họ Âu Dương ngày trước. Ông nhậm chức vào năm 574 và năm 575 lại bị thay thế bởi một hoàng thân khác. Đến năm sau, ông này lại bị đổi đi, thành ra việc lãnh đạo không được liên tục trong những năm ấy.

Năm 576, Trần Quân Cảo được phong Đô Đốc Quảng Châu. Sử chép rằng: “Bộ lạc Di và những người Lao liên tục đánh lẫn nhau. Quân Cảo lại là một nho sĩ, không thông thạo việc quân sự; nên ông dốc hết tâm lực vuốt ve xoa dịu họ và giảng giải phải trái để đem lại sự hài hoà trong dân chúng”. Năm 578. Quân Cảo chết, thọ được 48 tuổi, chỉ sau hai năm tại chức.

Danh từ Lao, như chúng ta đã biết, là để chỉ những người sống trong vùng núi non miền Nam, và Li, danh từ ở thế kỷ 5 để nói các bộ lạc sống ở miền núi, là một từ được dùng ở thế kỷ 6 để chỉ những sắc tộc phi Trung Quốc sống định cư ở các vùng đất thấp. Người Việt Nam được coi là ở trong số các tộc Li. Theo kinh nghiệm của Quân Cảo, những quyền lực địa phương không thích vai trò kiểm soát của bắc triều, nên ông chỉ tìm cách đóng vai trung gian mặc dù chẳng đi tới đâu!

Những sự rối loạn này đã làm cho Trần Quân Cảo mệt mỏi và có lẽ vì thế ông qua đời sớm dẫn đến kết cuộc là quyền chỉ huy bao trùm của ông trước đó nay bị chia năm xẻ bảy ra thật nhỏ với việc xuất hiện khá nhiều Đô Đốc với quyền hạn trách nhiệm hết sức giới hạn. Theo sách An Nam Chí Lược căn cứ trên các sử liệu Trung Quốc, môt người tên Dương Tấn đã giữ chức Đô Đốc hai châu Giao và Ái một thời gian, sau khi Quân Cảo chết. Và khi triều đại Trần Bá Tiên sụp đổ vào năm 589, lại có một người tên Dương Hựu Phổ làm Đô Đốc Giao Châu.

Ngược lại với các vị đô đốc này, trong số những người có thể đã ở miền Nam với danh nghĩa đại diện của triều đình, có một người tên là Lý Hữu Vinh nào đó, được sử chép là Thứ Sử Giao Châu. Năm 583, Lý Hữu Vinh gửi một số voi đã huấn luyện thuần thục sang triều cống Trần Bá Tiên. Trước đó, voi được thuần hóa đem triều cống thường là của Lâm Ấp. Do đó việc tiến voi một cách lạ lùng của “Thứ Sử Giao Châu” hàm ý rằng Thứ Sử Giao Châu đang ứng xử theo lề lối ngoại giao phi Trung Quốc.

Việc duyệt xét lại một cách ngắn ngủi trên đây về những biến cố ở miền Nam trong thời gian 40 năm kể từ khi Trần Bá Tiên chiến thắng Lý Bí cho đến khi triều đình nhà Trần sụp đổ đều hoàn toàn lấy ở trong sử liệu Trung Quốc. Sử liệu nói về về Giao Châu trong thời gian này thì gần như không có, ngoại trừ lác đác nói đến những chức vị, thậm chí vài lời phê bình bâng quơ còn hầu hết chỉ nói đến những tiếp xúc thương mại thay vì chính trị. Những chi tiết mà chúng tôi đã xem xét theo sử liệu Trung Quốc đều hậu thuẫn những quan điểm cho rằng Trung Quốc vẫn tiếp tục kiểm soát Giao Châu trong suốt thời gian này. Tuy nhiên, có hai điều mâu thuẫn đáng lưu ý:

Điều thứ nhất là thông tin mà chúng tôi đã xem xét kỹ đều nói đến sự suy yếu của quyền lực Trung Quốc ở miền Nam trong suốt thời gian ấy. Trong khi Trần Bá Tiên trở về Bắc những năm 548-52, tinh thần vương triều cũng đi theo ông. Năm 552, quyền của Tiêu Bột không ra khỏi giới hạn tỉnh Quảng Tây bấy giờ. Khoảng giữa những năm 554-60, khu vực tỉnh Quảng Tây bây giờ lại phần lớn chịu ảnh hưởng Vương Lâm. Trong 10 năm sau đó, họ Âu Dương ở Quảng Châu áp dụng hệ thống gia đình trị và sự trung thành được xét theo từng cá nhân. Hệ thống cai trị này đã ảnh hưởng xuyên suốt xuống tới Giao Châu và xa hơn nữa mà phần chính là qua hệ thống thương mại. Sự sụp đổ của họ Âu Dương năm 570 mà tiếp theo là cuộc viễn chinh của Nguyễn Trác xuống tận miền biên giới đã khiến Lâm Ấp và Phù Nam phải vội gửi sứ giả lên triều đình. Nhưng điều này cũng không thu được kết quả gì và điều ngạc nhiên nhất là nhân vật Nguyễn Trác đã bặt tăm không được nghe nói đến nữa. Những tranh chấp địa phương đã gây nên sự tuyệt vọng của Trần Quân Cảo (576-78) và đưa đến kết quả là sự tan rã của quyền lực bắc triều trong khi triều đại Trần Bá Tiên thoi thóp dưới bóng nhà Tùy. Việc duy trì thương mại có thể là động lực của việc cống nạp voi lên triều Trần vào năm 583 bởi một lãnh tụ địa phương Giao Châu. Như vậy là nguồn sử Trung Quốc không đi ngược lại với điều cho rằng trong những năm nói trên, Giao Châu tự chủ, nếu không phải là độc lập một cách hữu hiệu.

Điều thứ hai là khá nhiều chi tiết lịch sử từ thế kỷ 6 vẫn còn được bảo tồn ở Việt Nam cho đến tận ngày nay. Khi Lý Bí qua đời, nhiều lãnh tụ địa phương nổi dậy chống lại bắc triều; và sau khi qua đời, họ đều được dân chúng lập đền thờ phượng. Những tiểu sử và đời hoạt động của những vị anh hùng ấy đã được ghi chép lại và bảo tồn trong những ngôi đền thờ cúng họ. Trong nửa đầu thế kỷ 12, những điều ấy đã được chép vào một tác phẩm lịch sử mà tiếc thay, không còn nữa (nhà Minh đã xâm chiếm Việt Nam và ra lệnh thu hồi về Trung Quốc hoặc đốt hết sách của Việt Nam vào thế kỷ thứ 14). May mắn là một số những điều trong tác phẩm bị thất lạc đó đã được sao chép lại sang những sách khác còn tồn tại cho đến nay. Như chúng ta vẫn hằng mong ước, những chi tiết lịch sử giá trị từ tiểu sử và hoạt động của các vị anh hùng được phong thánh là những gì còn lại, mặc dù không tránh khỏi ít nhiều huyền tích. Tuy thiếu những sự kiện lịch sử giúp chúng ta hiểu được thực sự những gì đã xảy ra; các lời truyền tụng và ghi nhớ trong các đền thờ cũng phô bày một cách rõ ràng môi trường văn hoá mà trong đó những biến cố ấy diễn tiến, hoặc là được dân chúng tạc ghi trong lòng và truyền lại cho con cháu. Từ đó chúng ta có thể kết luận rằng vào thời ấy, sau hơn 5 thế kỷ dưới ảnh hưởng Trung Quốc, chủ đề độc lập tự chủ đã có từ thời tiền Trung Quốc vẫn mang những ý nghĩa sống còn cho dân tộc Việt.

việt nam khai quốc: triệu quang phục (chương 4, phần 3)

Khi Lý Bí phải rút vào thung lũng Khuất Liễu sau khi bị Trần Bá Tiên đánh bại ở hồ Điển Triết vào năm 546 thì Triệu Quang Phục, con trai của Thái Phó Triệu Túc trở thành lãnh tụ kháng chiến trong đồng bằng sông Hồng. Triệu Quang Phục lập bản doanh trên một bãi đất nằm giữa khu đầm lầy ở Chu Diên mà nhân dân thường gọi là Đầm Nhất Dạ. Nơi đây theo truyền thuyết dinh thự thần tiên của công chúa Tiên Dung, con vua Hùng Vương, và phò mã Chử Đồng Tử một đêm kia đã bay về trời.

Đầm Nhất Dạ đúng là một nơi ẩn náu lý tưởng vì nếu đội quân nào không thông thạo đường lối ở trong đầm do hệ thống kinh rạch chằng chịt, mà cả gan kéo vào sẽ bị lạc lối, không biết đường đi nữa, và sẽ bị các chiến sĩ của Triệu Quang Phục bất thần xuất hiện và tấn công.

Triệu Quang Phục, theo sử sách ghi lại, đã tập hợp được tới 20.000 quân dưới quyền chỉ huy của ông. Ban ngày thì quân sĩ ẩn nấp ở trong đầm, nhưng đến đêm, ông cho quân ra phục kích, tịch thu lương thực, giết và bắt sống vô số quân nhà Lương, xong rồi lại rút nhanh vào chỗ an toàn trong đầm trước khi quân địch kịp thời đối phó.

Chiến thuật du kích này, theo các nguồn sử liệu Việt Nam, đã khiến Trần Bá Tiên phải than rằng: “Thời xưa, đây là đầm “nhất dạ thăng thiên” (ý ông muốn nhắc đến truyền thuyết lâu đài bay lên trời), nhưng bây giờ là đầm của bọn “nhất dạ đạo tặc”. Dù Trần Bá Tiên có thể chỉ coi Triệu Quang Phục như một tướng cướp, nhưng đối với nhân dân Việt Nam, Triệu Quang Phục lại là một vị anh hùng dân tộc đáng kính. Việc Triệu Quang Phục đặt bản doanh trên địa điểm từng ghi dấu huyền tích cũ không đơn thuần là tượng trưng mà còn mang một ý nghĩa quan trọng hơn nhiều đối với niềm tin của dân chúng.

Có hai biến cố quan trọng góp phần vào sự nổi dậy thành công của Triệu Quang Phục. Thứ nhất là sau cái chết của Lý Bí thì rất nhiều bộ hạ của Lý Bí đều hướng về Quang Phục như là người lãnh đạo mới. Thứ hai là việc Hầu Cảnh chiếm ngôi nhà Lương và giết Lương Vũ Đế vào năm 549 khiến Trần Bá Tiên phải nhanh chóng quay về Bắc. Một điều nữa không kém phần quan trọng là phương cách mà Triệu Quang Phục chính thống hoá quyền hành của ông như được trình bày sau đây.

Theo truyền thống và phong tục bản xứ, Triệu Quang Phục cho thiết lập một bàn thờ lớn ở giữa đầm, hương khói nghi ngút để vọng hồn các anh linh. Lòng thành của ông được đáp ứng khi Chử Đồng Tử cưỡi rồng vàng giáng trần và bảo ông rằng: “Tuy ta đã về tiên giới từ lâu rồi, nhưng hồn ta vẫn quanh quẩn nơi đây. Vì biết được thành tâm của ngươi và thấy ngươi hết lòng cầu khẩn, nên ta cảm thông, xuống giúp ngươi trong công việc dẹp yên rối loạn này”. Thế rồi Chử Đồng Tử rút ra một cái móng của con rồng vàng, đưa cho Triệu Quang Phục và phán tiếp: “Hãy đặt cái móng rồng này lên chóp nón của ngươi, từ nay đường ngươi đi sẽ dẫn đến thành công. Nói xong, Chử Đồng Tử hóa vào đám mây và biến về trời. Sau đó Triệu Quang Phục lên ngôi vua, xưng vương đất Việt và lấy hiệu là Dạ Trạch Vương.

Trong huyền tích này, Triệu Quang Phục tự khoác lên vai mình cái quan niệm đế vương rút tỉa từ những ý niệm của nhân dân về vấn đề chính thống trong chính trị. Việc Chử Đồng Tử hiện xuống phù trợ cho ông hàm ý rằng Triệu Quang Phục sẽ là một vị vua bảo tồn Phật Giáo, tôn giáo đã có từ thời Sĩ Nhiếp. Tư tưởng tôn giáo này có thể đã chưa xuất hiện vào thời Quang Phục, nhưng có lẽ đã phát triển sâu rộng hơn trong những thế kỷ sau, dưới ảnh hưởng của Phật Giáo và Lão Giáo vì các sử liệu cho thấy vào khoảng thế kỷ thứ 15 thì Chử Đồng Tử đã thành một hình ảnh quan trọng trong điện thờ các danh thần của Lão Giáo Việt Nam. Thật vậy, nguồn lịch sử cũ nhất về huyền tích này không nói gì đến Chử Đồng Tử mà chỉ nói đến một con rồng vàng. Việc lấy cái móng rồng làm tiêu biểu cho sự bất khả chiến bại và cho chủ quyền chính trị là mang màu sắc và âm hưởng của câu chuyện móng rùa mà ngày xưa đã từng đem lại quyền lực cho An Dương Vương bẩy thế kỷ rưỡi trước đó. Triệu Quang Phục đã khôn khéo sử dụng các huyền sử của Việt Nam trước khi bị Trung Quốc đô hộ để thu phục lòng dân và quân sĩ.

Dương Phiêu, người được phong Thứ Sử Giao Châu, và từng đi theo Trần Bá Tiên vào Giao Châu cũng không được nhắc đến nữa. Trong khi đó thì sử Việt Nam lại nói đến một vị tướng quân là Dương Sàn mà Trần Bá Tiên lưu lại khi ông đem quân về Bắc. Có thể Dương Sàn và Dương Phiêu là một nhưng bị lầm tên chăng? Sau khi Bá Tiên rút khỏi miền Nam và mải mê lo loạn Hầu Cảnh ở miền Bắc thi Triệu Quang Phục đã nhân thời cơ đánh bại và giết được Dương Sàn. Tàn quân Lương sống sót đều chạy cả về Bắc khi Triệu Quang Phục thu hồi được thành Long Biên và đem lại thái bình thịnh trị cho đồng bằng sông Hồng.

Trong khi đó, Lý Thiên Bảo, người anh lớn của Lý Bí, đem quân bao vây Lương quân ở Ái Châu nhưng bị Trần Bá Tiên đánh bại vào năm 547 và sau đó phải chạy trốn lên núi. Theo sử liệu Việt Nam, Lý Thiên Bảo thua chạy và dừng chân ở thung lũng Đà Năng, thượng lưu sông Đào, nơi được trời phú cho đất đai phì nhiêu và dân cư phồn thịnh. Ở đó Thiên Bảo cũng xưng là vua và lấy hiệu là Đào Lang Vương. Khi ông chết năm 555 vì bệnh, ông được một người họ hàng là Lý Phật Tử lên kế ngôi.

Năm 557, Lý Phật Tử đem một đạo quân xuống núi để đánh Triệu Quang Phục, đòi kế ngôi Lý Bí, và tự xưng là Nam Việt Vương. Sau những trận đánh kéo dài tại quê hương Lý Bí, Lý Phật Tử công nhận Triệu Quang Phục mạnh hơn và xin hòa. Về phần Triệu Quang Phục thì cho rằng vì dù sao Lý Phật Tử cũng là họ hàng của Lý Bí nên đồng ý chia đôi quyền lực đồng bằng sông Hồng. Lý Phật Tử được chia quận Tân Xương, vùng đất đai ở mạn Tây sông Hồng và đóng đô ở Ô Diên, phía Tây Hà Nội ngày nay. Còn Triệu Quang Phục thì giữ lại mảnh đất nông nghiệp ở phía Đông Giao Chỉ.

Những diễn biến kể trên liên hệ như thế nào với tình hình rối ren ở miền Bắc thì không có gì khó hiểu. Mặc dù rời Giao Châu từ năm 548, mãi đến năm 550 Trần Bá Tiên mới vượt được qua vùng núi phía Bắc và tiến vào lưu vực sông Dương Tử. Thời gian này, Triệu Quang Phục đã nắm lấy thời cơ đánh bại nốt những đám quân Lương còn sót lại của Trần Bá Tiên và chiếm trọn đồng bằng sông Hồng. Tiêu Bột ở Quảng Châu thì thế lực quá yếu ớt vì quá mải miết với những âm mưu của ông nên chả có ảnh hưởng gì đến Giao Châu. Năm 554, Vương Lâm đột nhiên kéo quân về nơi bây giờ là Quảng Tây và phong cho một bộ hạ của ông là Lưu Nguyên Yển chức Thứ Sử Giao Châu. Quang Phục và Nguyên Yển có thể đã chạm trán với nhau, nhưng có lẽ Nguyên Yển đang để hết tâm trí về miền Bắc, nên năm 555 ông lại kéo cả tùy tùng lên tiếp ứng Vương Lâm trong cuộc tranh giành quyền lực của hoàng tộc Lương.

Năm 557 là năm có thay đổi chính trị ở khắp Trung Quốc. Cũng cần nhắc lại vì Trần Bá Tiên tiếm ngôi nhà Lương lập nên nhà Trần nên Tiêu Bột sai Âu Dương Ngụy đem quân tấn công nhưng thất bại nên Tiêu Bột bị thuộc hạ Trần Pháp Vũ, cựu Thứ Sử Hàng Châu và Thứ Sử danh dự Cửu Đức, giết chết. Sau khi được Trần Bá Tiên tha và phục hồi chức vụ thì Âu Dương Ngụy đem quân về miền Nam nhưng vừa về đến nơi thì Vương Lâm nổi loạn. Từ năm 557 đến 560, Âu Dương Nguy phải đương đầu với thực lực mạnh nhất của Vương Lâm vào lúc ấy trong vùng Quảng Tây bây giờ và giáp giới Giao Châu. Triệu Quang Phục ở vào thế lưỡng đầu thọ địch, một bên là quân nhà Trần, còn bên kia là Lý Phật Tử. Có thể vì sự bất mãn ngày càng tăng trên miền Bắc mà ông buộc phải để yên cho Lý Phật Tử hiện diện ở đồng bằng sông Hồng, và cũng có thể vì lý do này mà Phật Tử dám đưa quân ra khỏi vùng núi ông đang ẩn náu.

Cũng có giả thiết cho rằng việc Viên Đàm Hoãn, Thứ Sử Giao Châu, bí mật chuyển một số vàng đến cho Âu Dương Nguy, là một trong những kế sách của Triệu Quang Phục nhằm mua chuộc Âu Dương Nguy để chống lại Vương Lâm vì rất có thể việc nổi loạn của Vương Lâm đem lại lợi thế cho Lý Phật Tử. Viên Đàm Hoãn có thể là đại diện của Âu Dương Nguy tại triều đình Triệu Quang Phục và là trung gian tiếp xúc giữa Quang Phục với Âu Dương Nguy. Sau khi vụ Vương Lâm kết thúc, người kế vị Đàm Hoãn là Âu Dương Thịnh có thể đã tiếp tục vai trò ấy mặc dầu, theo sử sách, công việc duy nhất của ông được chép lại trong thời gian ông làm Thứ Sử lại là ở trên miền Bắc. Cũng có thể là thời kỳ này Viên Đàm Hoãn chẳng dính dáng gì đến tình hình ở Giao Châu cả. Trong những năm 560, những “sứ giả” được đổi xuống Giao Châu và lưu trú ở đó thì phần lớn chỉ là để hành nghề thương mại. Chúng ta có thể kết luận một cách hợp lý rằng, Triệu Quang Phục, bằng cách nào đó, đã liên minh với gia đình Âu Dương bởi vì theo sử liệu Việt Nam, ông mất ngôi vào lúc Âu Dương Hốt nổi dậy rồi bị giết chính vào lúc có cuộc viễn chinh của Nguyễn Trác.

Triệu Quang Phục mất ngôi được nhớ đến mãi qua một huyền thoại tương tự như An Dương Vương. Cả hai sự kiện đều gần giống như nhau ngoại trừ tên tuổi của người đóng vai chính, và chiếc móng rồng thay cho cái nỏ có lẫy làm bằng móng rùa. Theo lập luận nêu ra ở thế kỷ 6, người con trai của Lý Phật Tử là Nhã Lang cũng lấy con gái của Quang Phục là Cao Nương và được phong làm phò mã. Nhờ có Cao Nương nên Nhã Lang lấy cắp được móng rồng, mà theo truyền thuyết Chử Đồng Tử đã trao cho Triệu Quang Phục, và thay thế bằng một cái móng rồng giả. Sau đó Nhã Lang đem móng rồng thật về cho cha mình là Lý Phật Tử. Thế rồi chiến tranh lại tái phát, Triệu Quang Phục bị thua ở khắp mọi nơi vì không còn móng rồng thần nữa. Khi chạy ra tới bờ biển thì ông được thần rồng vàng nổi lên đón về Thủy cung.

Việc nhắc lại huyền tích cũ này hàm ý giải thích những thăng trầm của Triệu Quang Phục và khơi lại những giá trị văn hóa bản xứ Việt đã tồn tại trước khi bị Trung Quốc đô hộ cũng như những biểu tượng văn hoá đặc thù khác. Nhưng quan trọng nhất là việc lần đầu tiên Triệu Quang Phục lấy hiệu vua có ý nghĩa từ tiếng bản xứ chứ không dùng tên gọi theo ý nghĩa Trung Quốc như Lý Bí đã làm trước đó. Triều đại Triệu Quang Phục đã để lại ấn tượng sâu đậm trên tâm tư người dân bản xứ nhưng chỉ có Lý Bí và Lý Phật Tử được sử Trung Quốc nhắc đến, còn Triệu Quang Phục thì không. Họ Lý được Trung Quốc nói đến vì tổ tiên là người Trung Quốc và đã làm việc với Bắc Triều với tư cách là Phụ Tá Biên Thùy được bổ nhiệm. Rõ ràng họ Triệu đã đi sát với văn hoá bình dân bản địa và mang sắc thái riêng của Phật Giáo Giao Chỉ nên Trung Quốc không muốn nhắc đến.

Triều đại của Dạ Trạch Vương Triệu Quang Phục bị kết liễu có thể liên quan đến cuộc viễn chinh vào năm 570 của Nguyễn Trác. Vào thời gian này trong khi Triệu Quang Phục phải đối phó với mọi cuộc xâm lăng từ phương Bắc thì Lý Phật Tử lại được hưởng lợi từ những biến cố ấy. Lý Phật Tử có thể đã liên minh với Nguyễn Trác để chống Quang Phục, hoặc đơn giản rằng ông đã chỉ xuất hiện sau khi Quang Phục và Nguyễn Trác đã đẩy nhau vào tình trạng kiệt quệ. Những người Lao mà, theo sử liệu Trung Quốc, hay tụ tập nhau lại để cướp phá Giao Châu vào thời gian có cuộc viễn chinh của Nguyễn Trác, có thể đã có quan hệ với Lý Phật Tử vì những người Lao này đã từng liên minh với Lý Bí, họ hàng của Lý Phật Tử. Về sau, rất có thể Lý Phật Tử đã nhờ họ giúp đỡ để chống lại Triệu Quang Phục. Nếu đúng là như thế, ta có thể giả thuyết rằng cuộc chinh phạt của Nguyễn Trác là nhằm mục đích giúp Triệu Quang Phục, nhưng bằng chứng dẫn đến tình huống này lại quá ít nên không thể kết luận chắc chắn được.

việt nam khai quốc: lý phật tử & sư tổ tỳ ni đa lưu chi (Vinitaruci) (chương 4, phần 4)

clip_image001

Chùa Dâu còn gọi là chùa Pháp Vân tỉnh Bắc Ninh được xây khoảng thế kỷ thứ 3, tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu Việt Nam

Nhìn lại những truyền thống bản xứ có từ thời thượng cổ mà Triệu Quang Phục đã tìm cách khôi phục và bổ túc thêm thì chiều hướng văn hoá ở Giao Châu dưới thời kỳ Lý Phật Tử được xem như là thời Phật Giáo đầu tiên được Việt Nam hóa. Một thế kỷ trước đó, hoàng đế Cao của nhà Tề (479-482), người rất sùng đạo Phật, đã loan báo ý định gửi những phái bộ truyền đạo Phật từ Trung Quốc xuống Giao Châu nhưng Tăng Thiện, một nhà sư gốc Trung Á, đã khuyên vua Tề rằng:

“Đất Giao Châu đã đang tiếp xúc với Ấn Độ. Giáo lý của Phật chưa được truyền đến kinh đô Tề của ta mà hai chục công trình Phật Giáo đã được xây dựng ở Luy Lâm, Giao Châu với hơn 500 người quy y và thuộc làu làu 15 pho kinh Phật rồi… Như vậy gửi những phái bộ truyền đạo đến đó là không cần thiết. Thay vào đó chúng ta nên gửi các quan chức đến để thanh sát những chùa chiền, tu viện tại đó…”

Đây là thông tin duy nhất còn lưu lại nói về tình trạng Phật Giáo Việt Nam giữa thời Sĩ Nhiếp cho đến thế kỷ 6. Rõ ràng là Phật Giáo đã đạt được một vị trí vững vàng trong dân chúng Việt Nam thời đó.

Thế kỷ 6 là thời kỳ đặc biệt sáng sủa cho sự phát triển của Phật Giáo ở Việt Nam. Việc các khuynh hướng Phật Giáo ở Ấn Độ và Trung Quốc được hội nhập và phát triển một cách dễ dàng và sốt sắng ở Việt Nam là bằng chứng của sự trưởng thành và nghị lực của Phật Giáo Việt Nam. Chúng tôi đã nói đến kiểu tượng Phật Long Môn với nét điêu khắc được coi như là bằng chứng về việc Phật Giáo Trung Quốc du nhập và phát triển tại Việt Nam vào thời Lý Bí. Cũng có nhiều bằng chứng khác cho thấy mối liên quan trực tiếp hơn về việc tiếp xúc giữa Phật Giáo Trung Quốc và Việt Nam vào thế kỷ thứ 6.

Dưới triều đại Trần Bá Tiên (557-589), chưởng môn đời thứ 3 của giáo phái Thiên Thai là Trí Nghi (538-597) đi thuyết pháp, viết kinh và tìm cách hệ thống hóa giáo lý nhà Phật. Mang tính chiết trung và không nhất thống trong phương pháp nhưng những chủ thuyết của giáo phái Thiên Thai vẫn lan tràn rất nhanh trong dân giã Việt Nam. Tuy nhiên giáo thuyết này lại chẳng tạo ảnh hưởng được giai cấp cầm quyền Việt Nam nếu đem so sánh với môn phái ngồi trầm tư mặc tưởng mà tiếng Phạn gọi là Dhyana, tiếng Trung Quốc gọi là Ch’an, tiếng Nhật gọi là Zen và tiếng Việt gọi là Thiền.

Thiền đã du nhập vào Trung Quốc từ một nhà sư Ấn Độ tên là Bồ Đề Đạt Ma. Nhà sư này đã du hành đến Trung Quốc và ở lại Thiếu Lâm Tự trong nửa phần đầu thế kỷ thứ 5. Phần lớn những gì nói về đức Bồ Đề Đạt Ma đều là huyền thoại cả. Tương truyền rằng sau này một đệ tử của đức Đạt Ma là Tuệ Khả lại truyền giáo lý lại cho nhà sư Tăng Xán. Trong thời kỳ Phật Giáo bị ngược đãi dưới triều hoàng đế Vũ (561-577) của Bắc Chu, cư sĩ Tăng Xán phải ẩn náu trên một ngọn núi ở Hồ Nam.

Năm 574, một người đạo Bà La Môn từ miền Nam Ấn Độ tên là Tỳ Ni Đa Lưu Chi tức Vinitaruci du hành đến miền Bắc Trung Quốc. Đem hết tuổi trẻ và tâm huyết vào việc nghiên cứu Phật Giáo ở Tây Ấn Độ nhưng chưa thành chánh quả, Tỳ Ni Đa Lưu Chi quyết đi tầm sư học đạo thêm nữa. Trên đường đi ông đã tới ngọn núi mà Tăng Xán ẩn náu và đã bái Tăng Xán làm sư phụ. Sau đó Tăng Xán khuyên Tỳ Ni nên tiếp tục du hành về phương Nam vì tình hình bất ổn ở phương Bắc, và nhất là sự ngược đãi Phật Giáo đang hoành hành ở đó. Xuôi nam Tỳ Ni Đa Lưu Chi đến Quảng Châu và được một người tôn sư trọng đạo là Trần Quân Cảo, Đô Đốc Quảng Châu từ 576 đến 578, che chở. Trong thời gian lưu lại Quảng Châu Tỳ Ni đã dịch hai cuốn kinh Phật từ tiếng Phạn sang tiếng Trung Quốc. Sau khi Trần Quân Cảo qua đời thì Quảng Châu lại trở nên hỗn loạn. Chính vì thế mà năm 580 Tỳ Ni Đa Lưu Chi lại một lần nữa xuôi Nam đến Giao Châu và tìm được nơi ẩn náu tại chùa Pháp Vân ở Luy Lâu, một trong bốn ngôi chùa đã được xây từ thời Sĩ Nhiếp. Suốt 14 năm trụ trì tại chùa Pháp Vân cho đến khi ông viên tịch tại đó vào năm 594, Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã dịch thêm cuốn kinh thứ 3 và thu hút được nhiều đệ tử thọ giáo. Trong số các đệ tử mà ông quý mến nhất có nhà sư Pháp Hiển là người được ông truyền lại hết sở học mà ông lãnh hội được trước đó ở Tây Ấn Độ cũng như từ nhà sư Tăng Xán.

Sư Pháp Hiển, gốc ở Chu Diên và mang họ Đỗ. Việc Pháp Hiển có phải là hậu duệ của Đỗ Tuệ Độ, người đã cai trị Việt Nam hồi thế kỷ 4 và 5, hay không thì không rõ. Cũng cần biết rằng thiền pháp đã được đưa vào Việt Nam trước khi Tỳ Ni Đa Lưu Chi đến Giao Châu, vì trước đó Pháp Hiển đã tu tập và đạt chánh quả với Quán Duyên, một thiền sư khác cũng ở chùa Pháp Vân. Tuy nhiên Pháp Hiển lãnh hội được cái “tinh hoa và cao siêu” của thiền pháp phần chính là từ đức Tỳ Ni. Sau khi đức Tỳ Ni Đa Lưu Chi viên tịch, Pháp Hiển cho xây ngôi chùa Chung Thiên trên núi Tu, khoảng 20 dặm về phía Tây Bắc thành Luy Lâu thuộc Bắc Ninh hiện nay. Pháp Hiển Thượng Sĩ viên tịch năm 626, sau khi đã truyền thụ thiền pháp cho hơn 300 đệ từ tất cả những gì Pháp Hiển đã học được từ thiền sư Quán Duyên và nhất là từ Sư Tổ Thiền Tông Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi.

Việc du nhập Thiền Tông Phái một giáo phái mới, việc chấp nhận một vị sư phụ là người nước ngoài, việc xây dựng một ngôi chùa mới, và việc tụ tập bao nhiêu sư sãi sẽ không thể thực hiện được nếu không có một môi trường ủng hộ tôn giáo. Thêm vào đó còn cần một cộng đồng có đủ tư cách để giữ chân được một vị sư phụ đến từ nước ngoài, và đủ trưởng thành để đáp ứng và tiếp thu được sự hướng dẫn và dạy bảo của sư phụ người Ấn Độ ấy. Và trên hết cần phải có một lãnh tụ sùng đạo và có thực quyền để có thể bảo đảm điều kiện thái bình ở trong nước. Lý Phật Tử chính là một lãnh tụ như thế. Tên của ông là Phật Tử, tức con Phật, đã phần nào nói lên điều này. Thật ra chưa chắc ông đã dùng đến tên ấy cho đến mãn đời vì có giả thuyết cho rằng Lý Hữu Vinh, viên “Thứ Sử Giao Châu”, mà năm 583 đã tiến voi triều cống nhà Trần chính là Lý Phật Tử. Lý Hữu Vinh có thể là một tên khác mà Lý Phật Tử đã dùng thời gian triều cống voi nhà Trần, lý do phải dùng tên khác vì ông không muốn tiết lộ tên thật cho Trung Quốc biết vì sự bất trắc của thời đại mà cũng có thể là vì kế sách ngoại giao. Chắc vì thế mà trong cảnh hỗn loạn đánh dấu cuộc chuyển tiếp quyền hành từ nhà Trần sang nhà Tùy năm 580-590, Lý Phật Tử được sử sách Trung Quốc gọi là Lý Xuân. Lý Bí đã đặt tên nước là Vạn Xuân nên trong thời gian rối ren ấy, tên họ của Lý Phật Tử có lẽ đã được ghép với tên nước Vạn Xuân để thành Lý Xuân chăng?

zen image

Thiền Tông Phái

Với ba chục năm dài trị vì, sử liệu Việt Nam đã tôn vinh Lý Phật Tử như một người có công rất lớn trong việc làm sáng tỏ được bối cảnh chính trị thời gian đó bằng việc tạo cơ hội cho Thiền Tông Phái du nhập và phát huy tại Việt Nam khi đức Tỳ Ni Đa Lưu Chi, người khai xướng thiền phái này, du hành xuống miền Nam để tìm một môi trường thái bình yên ổn có thiện cảm với Phật Giáo. Cũng như trong các thời kỳ trước đó, mỗi khi có binh biến hoặc thay đổi triều đại ở Trung Quốc, Việt Nam lại được hưởng một thời kỳ thái bình và thịnh vượng dưới sự lãnh đạo của các lãnh tụ địa phương tài đức. Chính môi trường ủng hộ tôn giáo như đã nói ở trên đã lôi cuốn đức Tỳ Ni Đa Lưu Chi, khiến ông có thể yên tâm sáng lập được một tông phái mới ở Việt Nam mang tên ông. Phái Tỳ Ni hay còn gọi là Thiền Tông Phái là phái thứ nhất trong ba tông phái Thiền Phật Giáo chính trong lịch sử Việt Nam. Ba tông phái Phật Giáo Việt Nam này [Thiền Tông, Tịnh Tông, và Mật Tông] đã đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ độc lập sơ khai và kéo dài mãi cho tới thế kỷ 13.

việt nam khai quốc: nhà tùy xuống miền Nam (chương 4, phần 5)


Tuy statue

Tượng phụ nữ gốm trắng (đời nhà Tùy 581-618 AD)

Quan hệ của Lý Phật Tử với triều Trần Trung Quốc bên ngoài có vẻ hữu nghị nhưng chẳng bao giờ chặt chẽ vì thế lực bấp bênh của nhà Trần. Do đó quan hệ giữa đôi bên phần chính là chỉ qua việc giao thương. Theo sử liệu thì những năm đầu thập niên 570, Thái Ngung, một quan chức nhà Trần bị trục xuất và phải lưu vong chính trị ở Giao Châu. Đồng thời, một người khác tên là Đại Hoàng lại có tên trong danh sách làm Thứ Sử Minh Châu. Hai chuyện này có thể liên quan đến cuộc viễn chinh của Nguyễn Trác năm 570, nhưng thông tin lại quá mập mờ nên không thể kết luận gì thêm. Đến những năm 580 lại có một sử liệu khác nhắc đến hai đô đốc ở Giao Châu là Dương Tấn và Dương Hữu Phổ. Có thể là có quan hệ chính thức giữa hai đô đốc này với Lý Phật Tử, nhưng lại một lần nữa vì tin tức không đủ nên không thể kết luận một cách chắc chắn được. Quá khứ cho thấy cách hành xử của Trung Quốc là luôn phong các chức tước danh dự cho những người mà không bao giờ có mặt ở miền Nam, vì thế chúng ta có cơ sở để tin rằng vì Triều Trần đang gặp khó khăn nên đã phong các hư chức này nhằm mua chuộc sự trung thành của những người này mà thôi.

Các cuộc tranh giành quyền lực ở bắc triều đã nhanh chóng đến hồi kết thúc vào năm 581 khi Dương Khiêm lập nên nhà Tùy ở Bắc Trung Quốc nhưng mãi đến năm 589 thì nhà Trần mới chịu hoàn toàn quy thuận. Thế là lần đầu tiên sau hai thế kỷ rưỡi loạn lạc và tranh chấp nội bộ, Trung Quốc lại được thống nhất. Trước khi hoàn toàn thống nhất, quân nhà Tùy đã từng tiến hành các phiêu lưu quân sự khi tìm cách vượt qua được các dãy đèo cao để vào miền Nam nhưng bị các lực lượng tàn dư của nhà Trần chặn đánh. Chỉ sau khi vua Trần bị bắt và tuyên bố quy thuận hoàn toàn thì quân Tùy mới chiếm được châu Quảng.

Sau khi một đô đốc ở miền Nam thất bại trong việc tập hợp quân đội để ủng hộ một vị hoàng thân của nhà Trần thì nhà Tùy mới củng cố được địa vị ở châu Quảng và lần hồi được các châu lân cận quy hàng, đặc biệt là sau khi sự kháng cự của Thứ Sử Định Châu ở vùng bây giờ là Quảng Tây bị hoàn toàn đè bẹp. Nhưng chẳng yên được bao thì miền Nam lại vùng lên chống cự vì vào năm 590, theo sử liệu Trung Quốc: “Biên giới cũ (miền Nam) của nhà Trần bùng lên một cuộc kháng cự lớn lao với nhiều nhóm nổi dậy cấu kết với nhau, lớn thì có quân đội hàng chục ngàn người, nhỏ cũng vài ngàn. Họ bắt cóc các quan huyện; có người bị mổ, moi ruột gan, có người bị chặt ra từng khúc và ăn thịt”. Trong số các người cầm đầu cuộc nổi dậy có ba người tự xưng là “thiên tử” và thiết lập triều đình riêng; bảy người khác, tự phong là Đại Đô Đốc và cai trị các nơi. Trong số đó sử Trung Quốc có nhắc đến Lý Xuân ở Giao Châu, và chắc chắn đó là Lý Phật Tử.

Tướng quân nhà Tùy lúc đó là Dương Tố đem một đạo quân tiến xuống miền Nam. Ông đánh “hơn 700 trận, từ miền núi xuống đến bờ biển; tấn công và phá hủy biết bao nhiêu chiến lũy, nhưng cũng có nhiều công sự ông không vượt qua nổi”. Triều đình phải gọi ông về vì sợ ông quá mệt mỏi; nhưng ông xin ở lại, viện lẽ nếu chưa dẹp yên các loạn quân thì sẽ còn loạn lớn hơn nữa nếu ông bỏ về. Sau một loạt các trận đánh mới nữa do ông chỉ huy, tình hình được tạm yên. Nhưng rồi loạn lại tái phát khi một “nhà vua man di” bao vây quân Tùy ở Quảng Châu. Một đạo quân cứu viện được gửi xuống và đám loạn quân này cuối cùng cũng bị dẹp yên”.

Không có dấu hiệu nào cho ta thấy Dương Tố tiến đến Giao Châu bao giờ vì liên tiếp trong nhiều năm nhà Tùy hoàn toàn bận rộn tái lập an ninh ở những vùng đất mà bây giờ là Quảng Đông và Quảng Tây. Trong thời gian nhà Tùy đang dần dần củng cố quyền lực ở Quảng Châu thì Lý Phật Tử, bên trong thì tiếp tục củng cố thế lực ở Giao Châu, nhưng ngoài mặt vẫn phải chính thức công nhận quyền đô hộ của nhà Tùy.

Năm 595, mặc dù thế lực nhà Tùy vẫn còn bấp bênh nhưng ảnh hưởng của họ ở vùng biên giới đã mạnh lên nhiều nên sứ giả Lâm Ấp phải lên tận triều đình nhà Tùy để bái kiến. Sau khi dẹp xong được lớp quan chức trung thành với nhà Trần cũ, nhà Tùy bắt đầu tính đến chuyện đương đầu với các lãnh tụ bản xứ “man di” phi Trung Quốc, mà họ gọi là “Li”, trong đó có Lý Phật Tử. Có nhiều lãnh tụ bản xứ phi Trung Quốc như thế được nhà Tùy tạm thời nhân nhượng vì chính sách của nhà Tùy vào thời điểm đó là dần dần tìm cách thu hút các lãnh tụ địa phương này vào vòng quỹ đạo ảnh hưởng của họ.

Năm 597, Lý Quang Sĩ, lãnh tụ người Li ở Quế Châu thuộc Quảng Tây ngày nay, lại dấy binh nổi loạn. Nhà Tùy sai một đạo quân từ Bắc xuống để hỗ trợ cho đạo quân đã được tuyển mộ ở địa phương và dẹp yên được Lý Quang Sĩ. Nhưng cuộc nổi loạn thứ nhì lại bộc phát ở Quế Châu trong cùng năm ấy. Để giải quyết tình hình nhiễu nhương này tận gốc rễ, nhà Tùy đã có một kế sách mới là cử một quan chức tên Lịnh Hồ Hi với trách nhiệm dẹp yên cuộc nổi loạn ở Quế Châu cũng như quyền tổng chỉ huy quân sự bao trùm cả miền Nam, kể cả Giao Châu nơi Lý Phật Tử đang cai trị.

Hồ Hi được giao quyền “tiền trảm hậu tấu” và mau chóng tìm cách thu phục nhân tâm dân chúng địa phương bằng cách chứng tỏ ông ta là một người khoan dung, độ lượng, và thành thật. Sử Trung Quốc chép rằng các lãnh tụ địa phương họp nhau bàn bạc rằng: “Trước kia, tất cả các quan chức [bắc triều] đều đem quân lính ra khủng bố, áp bức chúng ta. Còn ông này lại kêu gọi chúng ta thi hành lẽ phải và ra bố cáo”. Vì hành động khôn khéo như thế, nên Hồ Hi được dân chúng địa phương tín nhiệm và hợp tác. Ông cũng tập hợp những người có học trong vùng và phái họ đi thiết lập đô thị, xây dựng trường học và giáo hoá dân chúng”. Chính sách mới này của Hồ Hi có sức lôi cuốn mạnh mẽ đến nỗi nhiều lãnh tụ địa phương, trước vẫn nghiêng về phe nổi loạn, nay cũng tự kiềm chế và tôn trọng ông. Một thủ lãnh người Li là Ninh Mãnh Lực được nhiều người biết tiếng vì lòng trung thành với Hồ Hi. Triều đình nhà Tùy phải khen ngợi Hồ Hi về việc ông thu phục được lòng trung thành của cả người man di.

Quan hệ giữa Lý Phật Tử và Lịnh Hồ Hi bề ngoài thì có vẻ mực thước nhưng thật ra chỉ là qua loa chiếu lệ. Hồ Hi, tuổi đã cao nên rất muốn được về hưu trí. Hơn nữa vì đã tiêu hao bao nhiêu tâm lực vào những hành động cấp thời nên ông không còn ý muốn, hoặc tìm cách để dẫm chân lên những đặc quyền của một người đã tạo được một thế lực vững chắc ở vùng biên giới xa xôi hẻo lánh như Lý Phật Tử.

Tuy nhiên, Hồ Hi vẫn quan tâm đến việc hành chánh như việc chấn chỉnh tên gọi các châu. Nhận thấy nhiều châu, huyện ở địa phương có tên trùng nhau, Hồ Hi đã tìm cách thống nhất các tên châu huyện thuộc thẩm quyền cai quản của ông. Khi Trần Bá Tiên ở miền Nam, ông đã nâng quận Tân Xương lên cấp châu và đặt tên là châu Hưng. Năm 598, Hồ Hi đổi tên châu Hưng thành châu Phong. Cũng năm ấy, ông đổi tên châu Hoàng, được thành lập năm 535 ở bờ biển phía Bắc Giao Châu, thành châu Lục và tên của châu Đức cũng được đổi thành châu Hoan. Những tên châu mới như châu Phong, châu Lục, và châu Hoan còn tồn tại mãi cho đến khi chế độ cai trị “châu” của Trung Quốc tại miền Nam chấm dứt. Thật ra việc đổi tên các châu như thế của Hồ Hi chỉ có tính cách văn học và không ảnh hưởng gì đến việc kiểm soát thực sự những nơi đó cả. Tên của nhiều huyện cũng được thay đổi nhưng sự thay đổi có ý nghĩa nhất đối với Việt Nam sau này là việc bãi bỏ quận Vũ Bình và đặt những huyện của quận Vũ Bình dưới quyền kiếm soát của Giao Châu.

Năm 600, Hồ Hi 61 tuổi nên viết thư gửi triều đình xin về hưu. Trong thư xin về nghỉ hưu ông viết: “Sức khoẻ của hạ thần nay chỉ cho phép làm được những việc nhẹ nên rất lấy làm áy náy. Thần thường tâm nguyện cần phải chấm dứt sự cố gắng thái quá của mình… Thần là một bầy tôi đã nhiều tuổi và tự nhận mình không còn dùng được nữa… ” Ông cũng viết về sự khó khăn khi phải tìm cách thay đổi những phong tục man di của dân chúng địa phương khiến ông đau ốm, mệt mỏi, mong muốn được trở về Bắc. Triều đình bác bỏ lời tâu xin của ông và lại gửi xuống cho ông thuốc men để chữa trị và tiếp tục công việc. Chính vào thời gian này, sự đụng chạm quyền lực không thể tránh khỏi giữa Lý Phật Tử và bắc triều bắt đầu hé lộ.

Trong khi sức khỏe Hồ Hi ngày càng đi xuống thì Lý Phật Tử ngày càng tỏ thái độ độc lập bất chấp quyền uy của bắc triều hơn. Là một lãnh tụ “Li” có thế lực và bền vững nhất ở biên giới nên Lý Phật Tử lại càng bị triều đình chú ý. Năm 601, Hồ Hi chuyển một chiếu chỉ của bắc triều cho đòi Lý Phật Tử về triều trình diện. Hiểu rằng đã đến hồi quyết liệt, Lý Phật Tử đã tìm kế hoãn binh bằng cách xin để đến sang năm, sau Tết. Hồ Hi đã tự chế và chuẩn y việc Lý Phật Tử xin trì hoãn ngày về triều diện kiến vì tin rằng ông vẫn giữ được lòng trung thành của Lý Phật Tử. Chính vì việc này nên có người vu cáo về bắc triều rằng ông đã nhận hối lộ của Lý Phật Tử nên triều đình nghi ngờ ông và Lý Phật Tử đã thông đồng với nhau. Khi Lý Phật Tử công khai nổi loạn vào đầu năm 602 thì Hồ Hi bị bắt và giải về Bắc nhưng vì tuổi già sức yếu ông mất ở dọc đường.

Sau khi công khai chống lại nhà Tùy, Lý Phật Tử đã chứng tỏ sự độc lập của Giao Châu bằng cách cho dời đô về thành Cổ Loa. Kinh đô cũ ở Chu Diên thì ông giao cho tướng Lý Phổ Định trông coi, và một mặt ông sai Lý Đại Quyền, cháu ông, về giữ thành Long Biên. Vì hai thành này đều nằm ở trung tâm Giao Châu, nơi chịu ảnh hưởng nhiều nhất của Trung Quốc nên quyết định dời về Cổ Loa và Long Biên của Lý Phật Tử có lẽ là một quyết định sáng suốt và có ý nghĩa. Theo sử liệu của Việt Nam thì vùng này xưa là đất Cổ Loa và Vũ Ninh là địa điểm nằm ở phần Đông Bắc đồng bằng sông Hồng. Sử liệu Việt Nam cũng nói rằng trước kia Triệu Quang Phục đã từng cai trị từ “hai nơi” đó, tức Cổ Loa và Vũ Ninh. Giờ đến Lý Phật Tử, ông cũng muốn chứng tỏ như thế bằng cách dời đô về “hai nơi” đó: Cổ Loa và Vũ Ninh. Xét về mặt địa hình nắm được Cổ Loa và Vũ Ninh là kiểm soát được toàn bộ khu vực ăn thông với nhau về cả địa lý và văn hoá. Cả hai thành Luy Lâu và Long Biên cùng nằm trong khu vực này, kể cả những chùa chiền có liên hệ đến sư tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi và đồ đệ thân tín nhất của ông là Pháp Hiển Thượng Sĩ.

Suốt 30 năm dài kể từ lúc Triệu Quang Phục bị đánh đổ cho đến lúc Lý Phật Tử đứng lên tiếp nối chống lại nhà Tùy, vùng này, tức là trung tâm xưa nay vẫn chịu ảnh hưởng của bắc triều và được hưởng một quy chế đặc biệt khi Lý Phật Tử còn ở Ô Diên, Tây Nam sông Hồng. Cuộc viễn chinh của Nguyễn Trác năm 570 có thể đã để lại một số những thương nhân và những kẻ phiêu lưu mạo hiểm đến từ miền Bắc Trung Quốc. Những người này, và một số ít nhân dân còn trung thành với Triệu Quang Phục có thể đã không muốn Lý Phật Tử dời đô về Cổ Loa. Đồng thời, cộng đồng Phật Giáo cũng đang phát triển và có thể có người ra làm việc với chính quyền địa phương ở đó. Chưa kể đến những người của nhà Trần, rồi của nhà Tùy, có thể vẫn còn lưu trú ở đây với tư cách đại diện thương mại hay quan sát viên chính trị. Thành ra khu vực này trở thành một vùng trái độn chính trị và văn hoá mà ở đó, cộng đồng Phật Giáo phát triển mạnh dưới sự canh chừng của những lãnh tụ Việt Nam cũng như của các quan chức bắc triều. Bằng cách công khai nắm quyền kiểm soát vùng ấy, Lý Phật Tử đã chứng tỏ một cách rõ ràng ý chí độc lập tự chủ của ông.

Hành động đầu tiên của nhà Tùy là hỏi ý kiến của Dương Tố, người nổi tiếng là một chuyên gia quân sự cao cấp có nhiều hiểu biết về vùng biên giới phía Nam do cuộc chinh phạt của ông năm 590. Dương Tố tiến cử Lưu Phương và giúp lập kế hoạch viễn chinh mà trong đó ý kiến của Lưu Phương tiến xuống Giao Châu qua ngả Vân Nam dường như có ý kiến của Dương Tố. Quyết định tiến quân qua ngả Vân Nam là để tăng cường yếu tố bất ngờ vì nếu cứ đi theo con đường cổ truyền qua Quảng Tây và Quảng Đông vào Giao Châu thì mỗi bước đi đều bị Lý Phât Tử theo dõi. Lưu Phương lên đường từ Tràng An ở Bắc Trung Quốc với một đạo quân 27 tiểu đoàn. Mặc dầu là một tướng rất kỷ luật và nghiêm khắc, Lưu Phương lại được tiếng là rất bình dân với tướng sĩ của mình vì ông rất quan tâm đến những người đau ốm hay bị thương tích. Sau khi đi qua Tứ Xuyên, Lưu Phương đưa quân lên vùng cao của Vân Nam. Đến đây, viên chức coi việc dân sự ở trung tâm bị ốm nặng nên không đi được nữa. Vì muốn đến Giao Châu trước khi Lý Phật Tử biết được tin tức di chuyển của ông, nên Lưu Phương để một số quân sĩ ở lại với viên chức bị đau ấy và tiếp tục lên đường với những quân tinh nhuệ nhất. Tới đèo Đỗ Long, một vùng ẩm ướt đầm lầy, giữa vùng sông Tích và sông Chảy nơi có đặt trạm tiền phương của khoảng 2.000 quân của Lý Phật Tử, Lưu Phương vội cho quân đi đường khác để tránh, và xuôi dòng sông Chảy mà tiến một cách bất ngờ vào tận trung tâm sát nơi Lý Phật Tử đóng đô. Vì không chuẩn bị để có thể chống lại một cuộc tấn công bất ngờ như thế, Lý Phật Tử đành nghe theo lời kêu gọi đầu hàng của Lưu Phương. Lý Phật Tử bị bắt giải về kinh đô nhà Tùy và chết già ở đó. Các cố vấn và bộ hạ của ông, “những người tàn bạo và gian dối xảo quyệt” theo lời người [Trung Quốc] viết hồi ký cho Lưu Phương, đều bị đem chém để ngăn ngừa hậu hoạn.

VIỄN ẢNH THẾ KỶ VI

Trong những chương đầu, chúng ta đã theo dõi sự vươn lên của các gia đình địa phương có thế lực ở Giao Châu. Đến đầu thế kỷ 6, những gia đình có thế lực ở địa phương này hầu như đã đạt được tự chủ hoàn toàn đối với triều đình Trung Quốc. Sau đó, khi Trung Quốc có ổn định chính trị trong thời gian trị vì lâu dài của Lương Vũ Đế, thì bắc triều lại tìm cách can thiệp vào các công việc của địa phương Giao Châu và hậu quả là việc nổi dậy đòi độc lập tự chủ của Lý Bí.

Lý Bí tiêu biểu cho sự phát triển tất nhiên và hợp lý của lớp cầm quyền địa phương thời kỳ đó. Lớp cầm quyền như vậy không thể làm gì hơn được là ganh đua với chính giai cấp thống trị ở Trung Quốc. Lý Bí cũng biết xưng đế, cũng lập một niên hiệu và tổ chức một triều đình theo kiểu Trung Quốc. Mặc dù cuộc trải nghiệm này chỉ kéo dài được có vài năm, nhưng nó đã khai mở nguồn cảm hứng và khát vọng về độc lập tự chủ cho những người Việt Nam nhiều thế kỷ sau đó.

Cuộc viễn chinh của Trần Bá Tiên đã đẩy các lãnh tụ nổi dậy địa phương vào hai phía: một bên là rừng núi với người Lao và một bên là vào vùng đầm lầy. Họ Lý chạy vào rừng núi và làm cho mọi người biết đến mình vì ông đã tự xưng làm vua và lãnh đạo cuộc chiến chống Trần Bá Tiên. Họ Triệu thì không được các sử gia Trung Quốc nhắc đến mặc dù ông đã được xã hội đông dân cư ở đồng bằng che đậy trong lối đánh du kích điển hình. Triệu Quang Phục gây dựng những quan niệm về vương quyền mang bản sắc địa phương trong khi Lý Bí thì cũng xưng vương nhưng theo những lý tưởng chính trị của bắc triều.

Thời kỳ này các lãnh đạo địa phương chỉ cần bắt chước một chút các hình thức Trung Quốc cũng gây phản cảm nơi dân Việt bản xứ vì họ đã quá chán ngán cái ách thống trị của bắc triều qua bao nhiêu thế kỷ. Do đó chất xúc tác duy nhất để có thể giúp người Việt ngồi lại với nhau chính là Phật Giáo, tôn giáo đã có vị thế vững chắc ở cả Trung Quốc và Việt Nam.

Phật Giáo Việt Nam đã trải qua ba thế kỷ phát triển với những nét đặc thù của người bản xứ. Mặt khác, Phật Giáo Việt Nam đã học hỏi được rất nhiều khi tiếp xúc với Phật Giáo ở nhiều nơi, đặc biệt là với Phật Giáo Trung Quốc. Triều đại Lý Phật Tử và việc sáng lập giáo phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã đến vào lúc kết thúc một thế kỷ đặc biệt sáng tạo trong lịch sử Việt Nam như một viên gạch lót đường cho việc tiến dần tới độc lập tự chủ trong thế kỷ 10 và 11.

Thế kỷ 6 là một bài toán hóc búa cho các sử gia vì vừa phải đánh giá các nguồn sử liệu, vừa phải tìm cách giải thích những sự kiện nhiều khi quá mông lung như thế. Sự thiếu vắng những tài liệu về phía Trung Quốc buộc chúng ta phải xem xét những nguồn sử liệu Việt Nam, nhưng điều rõ rệt là sử liệu Việt Nam lại cung cấp những nguồn tin khác hẳn với nguồn sử liệu Trung Quốc. Thay vì bác bỏ các sử liệu Việt Nam vì không thể phối kiểm hoặc đối chiếu với sử liệu của Trung Quốc, chúng ta phải cố gắng tìm hiểu xem những tài liệu ấy nói gì, vì rõ ràng các sử gia Trung Quốc không biết được những gì đã diễn ra sau đó tại Việt Nam trong suốt thời gian từ lúc Trần Bá Tiên trở về Bắc vào năm 548 cho đến khi Lưu Phương đem quân tiến xuống miền Nam và đánh bại Lý Phật Tử vào năm 602.

Những thông tin được nói đến trong sử liệu Việt Nam đã được truyền lại đời này đến đời kia thêm ba thế kỷ nữa dưới ách thống trị của Trung Quốc trước khi họ được ghi lại một cách chính thức khi họ giành được độc lập thực sự vào thế kỷ thứ 10. Các sử liệu này được lưu trữ trong đền thờ các danh nhân như đền thờ Lý Phật Tử, đền thờ Triệu Quang Phục, hay những người có công với đất nước khác ở cấp thấp hơn. Những người ấy là những anh hùng liệt nữ mà tiểu sử của họ đã sống vượt thời gian và được kể lại tỉ mỉ từ qua nhiều thế hệ. Những anh hùng liệt nữ này tiêu biểu cho một tư duy bản xứ về quyền lực trong văn hoá Việt Nam.

Khi đi tìm ý nghĩa của thế kỷ 6 đối với lịch sử Việt Nam chúng ta cần phải nhìn vào cả quá khứ lẫn tương lai. Những biến cố xảy ra trong khoảng thời gian này được coi như một cánh cửa mà người Việt Nam, từ cái thời phải chịu ách thống trị của Trung Quốc, băng qua bao nhiêu thế kỷ để tiến tới thời kỳ độc lập. Lý thuyết về quyền lợi chính trị được cho là của Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử thật ra đã có từ thời văn hoá Lạc trong tiền sử. Lạc Long Quân trở về từ biển, trao cho con dân một cái móng, tượng trưng cho quyền lực của mình, hầu bảo vệ đất nước. Việc sở hữu một cái móng rồng sau đó càng làm rõ nét hơn sự nổi dậy kế tiếp của Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử. Việc chuyển cái móng từ người này qua người khác là theo một khuôn mẫu huyền tích sẵn có về hôn nhân và phản bội.

Nhìn từ một khía cạnh khác, sự tiến hoá chính trị theo 3 giai đoạn của Việt Nam trong thế kỷ 6 là một điềm báo trước cái gì nhất định sẽ phải đến vào thế kỷ 10 và 11, khi nền độc lập được thành tựu và củng cố. Giai đoạn một, các đại gia đình lớp thượng lưu mà phần lớn di cư từ miền Bắc đã nổi dậy giành độc lập, cắt đứt giây ràng buộc với bắc triều mặc dầu vẫn duy trì những nét văn hoá và chính trị theo kiểu Trung Quốc. Giai đoạn 2, lớp thượng lưu bị thách thức bởi sự xuất hiện của các lực lượng bản xứ; những lực lượng này ủng hộ những truyền thống mang nét đặc thù Việt Nam về quyền hành. Giai đoạn ba, cộng đồng Phật Giáo nổi lên như một trung gian giữa hai quan điểm ấy. Ba giai đoạn này theo thứ tự lần lượt được lập lại trong thời kỳ bắt đầu nền độc lập và tượng trưng một tiến trình thích hợp mà nhiên hậu là gạt bỏ quyền lực Trung Quốc.

Chính vì thiếu các thông tin chắc chắn về thế kỷ 6 khiến chúng ta đề cao khả năng phân tích và tổng hợp của các sử gia nhằm phản ánh được cả quá khứ lẫn tương lai và đồng thời để có thể trình tự hóa được những biến cố. Nhưng chúng ta cũng phải khẳng định rằng đã có một dạng sử theo kiểu lưu truyền trong trí óc của tập thể Việt Nam thời đó. Chúng ta cũng không thể cho rằng trong hơn một nửa thế kỷ được tự do, thoát khỏi bàn tay thống trị của Trung Quốc mà Việt Nam lại không có gì đáng ghi nhớ xảy ra. Những nguồn sử liệu Việt Nam nhất định phải phản ánh những biến cố thực sự một cách chi tiết hay ít nhất cũng phải qua những nét đại cương.

Đoạn văn được trích dưới đây để kết thúc thời kỳ mà Việt Nam đang tìm cách thoát khỏi ách thống trị của Trung Quốc sau đây đã làm hài lòng không ít những nhà đạo đức trong bao nhiêu thế kỷ. Dương Tấn, người sáng lập nhà Tùy, thường nghe kể lại số của cải khổng lồ mà Trung Quốc đã tước đoạt của nước Lâm Ấp vào năm 446, nên rất muốn một ngày nào đó được trang hoàng vương triều của ông bằng những kho tàng châu báu lấy được của vương quốc miền Nam xa lạ ấy. Sau khi Lưu Phương lấy được Giao Châu, Dương Tấn ra lệnh cho ông tiến xuống chinh phục Lâm Ấp lần nữa. Nhưng vị vua này đã không sống lâu đủ để có thể nếm thành quả của cuộc chinh phục ấy vì ông mất vào năm 604, trước khi cuộc viễn chinh bắt đầu.

Tuy nhiên đến năm 605, Lưu Phương tiến quân xuống Nam và sau trận chiến thường lệ bằng voi, đã chiếm được kinh đô Lâm Ấp ở vùng Trà Kiệu, gần Đà Nẵng ngày nay. Đúng như Trung Quốc mong đợi, chiến lợi phẩm mà họ cướp được hằng hà sa số gồm có 18 tấm bia bằng vàng để thờ làm bài vị 18 vị vua tiền nhiệm của người Lâm Ấp, một thư viện Phật Giáo gồm 1350 bộ kinh viết bằng chữ địa phương và một dàn nhạc của một vương quốc ở lưu vực sông Cửu Long.

Sau khi dựng tấm bia kỷ niệm chiến thắng của mình, Lưu Phương kéo quân về, mang theo toàn bộ chiến lợi phẩm lấy được. Nhưng dọc đường, bệnh dịch hoành hành đã tàn sát hết đạo quân Tùy và thần Chết cũng không tha cả Lưu Phương. Định mệnh dường như đã trừng phạt đích đáng một cuộc chinh phạt vô cớ mà động lực chính chỉ là lòng tham vô đáy.

Lời phê bình có lẽ sâu sắc và thấm thía nhất về chuyện động binh vì tham lam này là của vị vua nho học uyên bác nhưng không có thực quyền của Việt Nam là Tự Đức (1847-1883) vì lúc đó giang sơn đất nước ông đang bị người Pháp chiếm, vua Tự Đức viết:

“Quân đội là một dụng cụ tàn ác mà, cực chẳng đã, người khôn buộc phải dùng đến để chống lại bạo ngược hay để bảo đảm cho dân chúng được sống trong cảnh thái bình. Cứ xét như thế thì làm sao người ta có thể cho phép mình chạy theo những ham muốn dơ bẩn về của cải, làm sao có thể cho phép mình một sự thoải mái mà gây ra cảnh thương tâm đau khổ cho người khác phải chịu, và tàn phá sức mạnh của cả một quốc gia? Cổ nhân đã nói: “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Tưởng không cần phải giải thích thêm về câu này, bằng chứng hùng hồn là việc tướng quân nhà Tùy [người đem quân đi cướp bóc Lâm Ấp] đã không tránh khỏi cái chết và cả triều đại nhà Tùy rồi cũng sụp đổ sau đấy không bao lâu. Đây là một bài học có giá trị cho các sĩ tử suy ngẫm về cách sử dụng quân đội sao cho đích đáng”.

Phản ứng của vua Tự Đức hết sức rõ ràng và nghiêm khắc. Có lẽ ông đã hiểu rất rõ rằng chính vì lòng tham lam của Trung Quốc cũng như của Pháp đã gây ra bao nhiêu đau khổ cho dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử. Lời lên án uyên thâm của vua Tự Đức đã trở thành “kinh nhật tụng” cho giới sĩ phu Việt Nam khi họ lui về ở ẩn đọc sách [thay vì nổi dậy] trong thế kỷ 19 trước ách xâm lược của thực dân Pháp. Lời lên án này không phải không có căn cứ nếu chúng ta nhìn lại lịch sử Việt Nam. Điều mà vua Tự Đức phê phán về cuộc chinh phục Lâm Ấp của nhà Tùy cũng được phô bày rõ ràng trong chính sách đô hộ của các triều đại Trung Quốc trước đó đối với Việt Nam, và cho cả chính sách thuộc địa của nước Pháp vào chính thời ông đang sống.

Mặc dù hứa hẹn về một nền độc lập của Việt Nam thế kỷ 6 đã bị mai một bởi việc hồi sinh của quyền lực Trung Quốc. Đối với Trung Quốc, đây là việc làm sống lại nền văn hóa Đại Hán bằng việc đi khai hóa các dân “man di mọi rợ” ở phương Nam. Đối với Việt Nam thì đó lại là thời kỳ mà sự thèm khát ngàn đời của Trung Quốc đối với phương Nam lại vừa sống dậy. Về lâu dài về dài các thử thách trong việc mưu tìm độc lập tự chủ của người Việt, mặc dù bất thành, trong thế kỷ 6 vẫn được bảo tồn và tiếp nối. Tuy nhiên các truyền thống tốt đẹp này thường không được kế thừa bởi các tầng lớp thượng lưu và giới sĩ phu vì, như vua Tự Đức, họ thích nghiền ngẫm kho sách [lý thuyết] hơn là quân đội [các giá trị thực tiễn] mà họ đã được thừa hưởng từ những cuộc đấu tranh giành độc lập của các anh hùng liệt nữ vậy.



Counter