việt nam khai quốc: an nam đô hộ phủ (chương 5, phần 1)
5. AN NAM ĐÔ HỘ PHỦ
KHÂU HOÀ
Cũng như triều đại Tấn 800 năm trước đó, triều đại nhà Tùy có những dấu hiệu báo trước sẽ là một vương triều lớn. Giết chính cha mình là Tùy Văn Đế để tiếm ngôi vào năm 604 Tùy Dạng Đế đã làm kiệt quệ đế quốc non trẻ bằng những cuộc chiến tranh, những dự án xây dựng tốn kém, và bằng một lối sống vương giả xa hoa phù phiếm vô độ. Năm 615, Tùy Dạng Đế suýt nữa thì bị người Đột Quyết (tổ tiên của người Thổ ngày nay) bắt sống. Sau đó quyền hành của ông bị suy sụp và đế quốc nhà Tùy bị chia năm xẻ bảy thành những cát cứ. Năm 618, Lý Uyên cướp được kinh đô Trường Sa và lập triều đại nhà Đường. Cũng như trong các kỷ nguyên trước đó, mỗi khi có một triều đình sụp đổ và một triều đại khác lên thay ở Trung Quốc là Việt Nam lại hưởng thái bình được ít lâu dưới tài lãnh đạo của các thủ lĩnh địa phương. Người đem lại thái bình cho miền biên giới phía nam lúc đó chính là Khâu Hoà.
Ra đời vào năm 551 ở Lạc Dương, khi còn niên thiếu Khâu Hoà theo thân phụ, một tướng quân, luyện rèn võ nghệ nhưng khi trưởng thành, ông quan tâm nhiều hơn đến hành chánh dân sự và bắt đầu sự nghiệp dưới triều nhà Châu. Dưới triều đại nhà Tùy, Khâu Hòa được bổ nhiệm cai quản nhiều huyện ở miền Hoa Bắc nơi ít có rối ren, loạn lạc vì ông nổi tiếng là người có đức tính khoan dung độ lượng.
Cuối thời trị vì của Tùy Dạng Đế, khắp miền Nam dân chúng nổi lên chống lại những hành động bóc lột áp bức của các thái thú. Tình hình chỉ yên ổn trở lại khi triều đình phương Bắc tức tốc gửi những quan chức, được coi là lương thiện và thanh liêm, đến thay thế các thái thú tham ô. Trong những quan chức nhà Tùy mới đến miền Nam nhậm chức này có Khâu Hoà, mặc dầu lúc đó ông đã bước vào tuổi lục tuần.
Từ năm 604 nhà Tùy đã hạ quy chế tất cả các châu xuống cấp quận do đó lãnh thổ Việt Nam được chia thành ba quận nằm gọn trong một châu. Quận Giao Chỉ gồm toàn thể đồng bằng sông Hồng; châu Ái lại một lần nữa được gọi là Cửu Châu; và châu Đức mà năm 598 được Lịnh Hồ Hi cải tên là châu Hoan, nay trở thành quận Nhật Nam. Quá về phía nam là ba quận ngoại vi được thành lập từ những vùng đất vừa chiếm được của Lâm Ấp vào năm 605.
Bảng 3: HỒ SƠ HÀNH CHÁNH ĐỜI TẤN, TỐNG VÀ TỀ | |||
Số Huyện Trong Mỗi Châu | TẤN (265-419) | TỐNG (420-478) | TỀ (479-501) |
Quảng Châu | 68 | 136 | 188 |
Việt Châu | Không có | 7 | 55 |
Giao Châu | 53 | 53 | 52 |
Số Hộ Dân Tính Theo Từng Châu | |||
Quảng Châu | 43.120 | 49.726 | Không có |
Việt Châu | Không có | 938 | Không có |
Giao Châu | 25.600 | 10.453 | Không có |
Số Hộ Dân Tính Trên Các Quận Của Riêng Giao Châu | |||
Hợp Phố | 2.000 | Không có | Không có |
Giao Chỉ | 12.000 | 4.233 | Không có |
Tân Xương | 3.000 | Không có | Không có |
Vũ Bình | 5.000 | 1.490 | Không có |
Cửu Chân | 3.000 | 2.328 | Không có |
Cửu Đức | Không có | 809 | Không có |
Nhật Nam | 600 | 402 | Không có |
Tài liệu: Tấn Thư: trang 15; 8b; 9b; Tống Thư: 38. 23b-44b; Nam Tề Thư: 14-20a 28b.
Bảng 4. THỐNG KÊ DÂN SỐ GIAO CHÂU ĐỜI NHÀ TÙY | |
Quận | Số Hộ Dân |
Giao Chỉ (đồng bằng sông Hồng) | 30.516 |
Cửu Châu (đồng bằng sông Mã) | 16.135 |
Nhật Nam (đồng bằng sông Cả) | 9.915 |
Tổng Cộng: 56.566 |
Tài liệu: Tùy thư, 31, 12b-13a
Mặc dầu chẳng tồn tại được hết đời nhà Tùy, cơ cấu hành chánh này giúp chúng ta hiểu được rằng các số liệu trong bảng thống kê dân số, như được trình bày trong bảng 4, là nhằm giúp nhà Tùy thu thuế vào thời này. So sánh các con số trong bảng 3 (Chương 3) với bảng 4 cho thấy nhà Tùy đã cai trị miền Nam tương đối hiệu quả hơn. Mặc dù chi tiết về việc nhà Tùy đã cai trị miền Nam thế nào vẫn còn nhiều nghi vấn nhưng điều chắc chắn rằng nhà Tùy đã tìm mọi cách để đàn áp những đại gia đình địa chủ địa phương. Số hộ khầu gia tăng trong bảng 4 chứng tỏ các cố gắng của nhà Tùy trong việc thực thi chính sách "bình đẳng" ruộng đất ở Việt Nam. Mục tiêu chính của công cuộc cải cách ruộng đất này là chia đất cho những người nông dân chịu đóng thuế cho nhà Tùy để họ được có tên trong sổ hộ khẩu. Còn đối với những người không được chia đất thì họ sẽ trở thành những tá điền (không có tên trong sổ hộ khầu) và phải đi làm công cho những địa chủ.
Sử liệu duy nhất còn tồn tại cho thấy rằng chính sách sưu cao thuế nặng của nhà Tùy, qua việc ban chức tước đặc biệt cho các "lãnh tụ" địa phương là những người sẵn sàng tiếp tay nhà Tùy vơ vét các phẩm vật quý giá như ngọc trai, chim trả, ngà voi, sừng tê giác như một hình thức thu thuế gián tiếp ở miền Nam.
Trong khi trung tâm hành chánh của Giao Chỉ nằm ở Long Biên thì một đô đốc của Giao Châu lại đóng bản dinh ở Tống Bình gần Hà nội ngay nay với quyền hành bao trùm khắp miền biên giới [mà theo sử Trung Quốc là],
"để kiểm soát bọn man di từ tất cả những tiểu quốc phía nam, phía tây Giao Châu, và những cư dân trên các hòn đảo ở ngoài biển lớn… thường đến bằng tàu qua những hải trình rất dài… đem tới những hàng hoá qua ngả Giao Chỉ như họ đã từng làm từ thời Hán Vũ Đế…"
Sách chép rằng khi Khâu Hoà đến Giao Chỉ, ông "vỗ về tất cả những anh hùng địa phương và thu phục được sự tin cậy của bọn man di; tất cả những tiểu quốc ở phía tây Lâm Ấp đều đem đến nộp cho ông những phẩm vật quý hiếm như hạt trai, sừng tê giác, vàng và những đồ quý xứng đáng với một vị hoàng đế". Sự thành công của Khâu Hoà trong cách cai trị khiến ông được nhắc đến sau này như là một vị tổng quản nhân từ và đồng thời cũng phản ánh thế giới hàng hải phồn thịnh ở miền biển phía nam nơi từng đem lại thịnh vượng và chiếm ưu thế trong nền kinh tế địa phương từ thời Sĩ Nhiếp.
Khi nhà Tùy không còn kiểm soát được đế quốc của mình nữa thì các lãnh tụ địa phương lại bắt đầu nổi lên. Khởi đầu là Tiêu Thiết, hậu duệ nhà Lương ở lưu vực sông Dương Tử, tự xưng vương và thiết lập triều đình riêng. Kế đến là Lâm Sĩ Hoàng, nổi lên ở phía Đông Trung Quốc, cướp ngôi vua và tập hợp một số thuộc hạ cùng chung mộng đế vương mà trong đó có một người tên là Phùng Áng.
Có cha từng theo quân nhà Tùy xuôi nam và mẹ là một phụ nữ địa phương có quê quán bây giờ là vùng bờ biển Quảng Đông, Phùng Áng khi trưởng thành đã từng làm quan trấn nhiệm ở miền Tây Bắc Trung Quốc trong thời nhà Tùy. Khi nhà Tùy sụp đổ Phùng Áng quay về quê mẹ và kiểm soát được vùng Quảng Đông và phía đông Quảng Tây ngày nay. Còn miền tây Quảng Tây thì nằm dưới quyền kiểm soát của Ninh Trường Chân là người theo phe Tiêu Thiết.
Khâu Hoà đứng bên ngoài tất cả những quan hệ chính trị kể trên. Khi các sứ giả của cả Tiêu Thiết lẫn Lâm Sĩ Hoàng đến yêu cầu ông hợp tác, Khâu Hoà đều từ chối, vì trong thâm tâm ông vẫn chưa muốn tin rằng nhà Tùy đã thật sự chấm dứt. Tiếng đồn vì sự giàu có của Khâu Hòa khiến miền Bắc thèm muốn vì thế Tiêu Thiết ra lệnh cho Ninh Trường Chân đem quân chinh phạt miền Nam. Lúc đầu Khâu Hòa đã chuẩn bị quy thuận, nhưng một quan chức của ông là Cao Sĩ Liên lên tiếng khuyên ông rằng: "Mặc dầu Ninh Trường Chân đông quân, nhưng y phải đi đường xa mà đến, nên xét về quân lương tiếp liệu thì y không thể ở lâu được. Trong khi đó, chúng ta có binh sĩ được huấn luyện, có pháo lũy phòng thủ tốt, và có đầy đủ lương thực thì cớ sao lại phải đầu hàng khi chỉ mới nghe thấy lời đồn đại?"
Cho là phải, Khâu Hoà bèn giao cho Cao Sĩ Liên tổ chức phòng thủ, và quả nhiên quân đội Ninh Trường Chân đã bị đánh bại dễ dàng. Mãi đến khi Khâu Hoà biết được rằng Tùy Dạng Đế đã bị giết vào năm 617 và triều đại nhà Tùy đã thực sự chấm dứt với việc thành lập nhà Đường vào năm 618 thì ông mới chịu quy phục Tiêu Thiết.
Nhưng đến năm 622, khi Tiêu Thiết bị nhà Đường đánh bại thì Khâu Hoà lập tức xin quy thuận triều Đường và được bổ nhiệm ngay làm Đại Tổng Quản Giao Châu cùng với việc Cao Sĩ Liên thân hành lên tận kinh đô nhà Đường để chính thức hoá việc quy phục của Khâu Hoà. Lúc này Khâu Hòa đã 71 tuổi nên chẳng lâu sau ông trở về miền Bắc Trung Quốc và hưởng già ở đó cho đến năm 86 tuổi.
Khâu Hoà đã đem Việt Nam đến với nhà Đường trong những điều kiện hoà bình và thịnh vượng. Nhờ đó mà các tổng quản và thứ sử sau này của nhà Đường có được nền móng tốt để tiếp tục củng cố sự cai trị ở miền Nam. Nhà Đường, với thái độ hòa hoãn lúc ban đầu, đã không phải đương đầu với một dân tộc Việt lộ vẻ thù hằn khi bị chinh phục, một dân tộc đang thịnh vượng, có trình độ văn hoá cao và một hệ thống chính trị ổn định đủ để trở thành chư hầu của đế quốc một cách êm thấm mà không cần dùng đến vũ lực.
Vai trò của Khâu Hoà ở Việt Nam từ lúc nhà Tùy tan rã cho đến khi nhà Đường lên ngôi khác hẳn với cái khuôn khổ cũ trước đó khi các gia đình địa phương thường nắm thế chủ động. Có nhiều lý do để tin rằng nhà Tùy đã vô hiệu hoá được giới lãnh đạo địa phương ở miền Nam sau khi Lý Phật Tử quy hàng. Mặc dù không có số liệu chính thức, rất nhiều bộ hạ của Lý Phật Tử đã bị nhà Tùy giết, và không ít lãnh đạo địa phương đã phải cúi đầu quy thuận với những hứa hẹn đi đôi với những lời đe dọa. Điểm cần chú ý ở đây là sau những tranh chấp quyền lực và suy yếu vì chia năm xẻ bảy, Trung Quốc lại một lần nữa thống nhất, lại phô trương thanh thế và bành trướng sức mạnh như họ đã từng làm trong quá khứ với các lân bang. Đấy là lúc Trung Quốc bắt đầu một thời đại mới.
TỔ CHỨC ĐÔ HỘ PHỦ
Năm 622, nhà Đường bắt đầu phân chia lãnh thổ Việt Nam ra thành nhiều châu nhỏ dưới quyền kiểm soát của hai Tổng Quản Phủ. Tổng Quản Phủ quan trọng thứ nhất được đặt ở vùng phụ cận Hà Nội bây giờ với quyền hành bao trùm 12 châu (Giao, Phong, Chi, Ái, Hoan, Diễn, Trường, Lục, Thang, Võ An, Võ Nga, và Phúc Lộc) gồm 59 huyện trong đồng bằng sông Hồng và sông Mã. Tổng Quản Phủ quan trọng thứ hai được đặt ở đồng bằng sông Cả với quyền hành bao gồm các châu ở vùng biên giới cực nam. Mặc dù châu Ái nằm dưới quyền Tổng Quản Phủ phía bắc, nó vẫn chiếm một địa vị ưu việt so với các châu khác trong đồng bằng sông Mã.
Việc gia tăng con số các châu lúc ban đầu dường như nhắm mục đích xác định các vùng tập trung dân cư trọng yếu nhưng những năm kế tiếp, tổ chức hành chánh này lại thay đổi liên miên. Địa vị của các quan thứ sử nhà Đường đứng đầu mỗi châu được củng cố rất nhiều vì càng ngày họ càng quen thuộc với dân chúng và thông thạo tình hình địa phương.
Đầu năm 627, để đáp ứng những đòi hỏi về cải cách hành chánh theo lệnh của tân Hoàng Đế Đường Thái Tôn, con số các châu lại bị giảm thiểu hơn nữa. Năm 628, các Tổng Quản Phủ được đổi thành các Đô Đốc Phủ, dưới quyền các Đô Đốc, một hình thức cai trị đối với các khu vực nằm ngoài lãnh thổ chính quốc. Trong 50 năm sau đó, một cơ cấu phát triển hành chánh mới đã được nhà Đường thực nghiệm tại miền Nam mà đỉnh cao là việc Đường Cao Tông lấy lại tên An Nam Đô Hộ Phủ vào năm 679.
Các đô hộ phủ được đặt dưới quyền cai trị của các Kinh Lược Sứ mà sau đổi thành Tiết Độ Sứ, một chức vụ hành chánh nhà Đường đặt ra để cai trị các dân tộc "man di" hay phi Trung Quốc ở các vùng biên giới. Việc thành lập An Nam Đô Hộ Phủ phần nào phản ảnh mối quan ngại về việc kiểm soát chặt chẽ việc cai trị ở vùng biên giới sau khi nhà Đường bị người Tây Tạng đánh cho một trận tan tác tại Trung Á vào năm 678.
An Nam Đô Hộ Phủ là một trong số bốn vùng đất bị đặt dưới ách đô hộ của Trung Quốc như: An Tây Đô Hộ Phủ ở lưu vực sông Tarim; An Bắc Đô Hộ Phủ ở Mông Cổ; và An Đông Đô Hộ Phủ ở biên giới Cao Ly tức Triều Tiên bây giờ.
Hình thức và con số những châu đặt dưới quyền đô hộ phủ thỉnh thoảng lại thay đổi, nhưng có 8 châu đáng được coi là quan trọng nhất vì sau này 8 châu này sẽ trở thành lãnh thổ trọng tâm của một nước Việt Nam độc lập.
Biên giới phía nam được tính từ châu Hoan, nằm trong vùng hạ lưu sông Cả. Châu Hoan còn có thẩm quyền trên một số những “châu độn” được lập ra để "kiềm chế" những dân bộ lạc ở các vùng núi lân cận. Những "châu độn" này chỉ cao hơn các chức tước nhà Đường ban cho các thủ lãnh bộ lạc ở trong núi một chút để nhằm khuyến khích họ hợp tác.
Cuộc cải cách hành chánh năm 627 không trực tiếp tác động đến châu Hoan, ngoại trừ việc thay đổi tên của vài châu và bãi bỏ hai huyện. Ngược lại với tiến độ cải cách hành chánh ở phía bắc khi con số các châu bị giảm bớt, việc cải cách hành chánh theo lối nhà Đường ở châu Hoan tiến hành chậm hơn vì phải mất nhiều thì giờ phân định ranh giới đối với những châu mới được thành lập sau năm 627.
Năm 628, sách chép là Lâm Ấp được "vỗ về và an ủi" dẫn đến việc thành lập châu Kinh ở biên giới phía nam của châu Hoan. Năm 635, Lâm Ấp lại được "vỗ về và an ủy" để lập thêm một châu nữa là châu Lam cũng ở phía nam châu Hoan. Hai châu mới ở vùng biên giới này đều nằm ở vùng giáp ranh rặng Hoành Sơn. Sau đó hai châu này bị bãi bỏ vào cuối thế kỷ vì dường như việc thành lập hai châu này chỉ là một bước thử nghiệm để quan sát và nghiên cứu vùng biên giới Lâm Ấp mà thôi.
Chỉ mãi sau này thì việc cải cách hành chánh vùng biên giới Lâm Ấp mới được chính thức hóa bằng việc thành lập châu Phúc Lộc từ khu vực mà những người "Lao không văn minh" đã bị di dời vào thế kỷ thứ 6 trước đó. Đầu năm 683, những người “Lao không văn minh” này lại được nhà Tùy "chăm chút và vỗ về" với kết quả là việc kết hợp huyện Phúc Lộc vào châu Đường Lâm hiện có và lấy tên là châu Phúc Lộc vào năm 669. Châu Đường Lâm, được lập không lâu trước đó, bằng cách nhập huyện Đường Lâm vào một huyện cũ khác, có từ thời nhà Tùy khi được tách ra khỏi châu Hoan. Với đà bành trướng như thế nhà Đường đã dần dần thiết lập được sự kiểm soát vững chắc trên toàn vùng duyên hải chiến lược này.
Năm 635, châu Sơn, gồm một tiền đồn quân sự với dân số khoảng trên 5.000 người, được thành lập dọc theo thượng lưu sông Cả, ven vùng đồng bằng Trấn Ninh (cánh đồng Chum). Châu Diễn, nguyên thủy nằm ở dọc bờ biển bắc châu Hoan, nhưng vào khoảng năm 650 thì bị bãi bỏ để sát nhập vào châu Hoan. Vào khoảng năm 764, châu Diễn được tái lập thành một châu riêng biệt và châu Sơn lại bị bãi bỏ để nhập vào châu Diễn. Nhiên hậu châu Diễn gồm có vùng duyên hải phía bắc châu Hoan với toàn bộ vùng thượng lưu sông Cả.
Năm 622 châu Ái là một trong số 8 châu được lập tại các vùng sâu, vùng xa của đồng bằng sông Mã. Năm 627, tám châu này được kết hợp lại thành 2 châu; và đến năm 636, châu Ái lại nhập nốt những châu còn lại. Nằm ở vị trí chính giữa Đô Hộ Phủ, Châu Ái không phải chịp áp lực hoàn toàn của Trung Quốc như vùng đồng bằng sông Hồng ở phía bắc; đồng thời, lại có châu Hoan giúp chống đỡ những áp lực của những châu ở ngoại vi từ biên giới phía nam. Điều này khiến cho châu Ái gạn lọc được những tinh túy tiếp thu được từ bên ngoài. Và có lẽ đó cũng là lý do tại sao châu Ái lại nổi lên ở thế kỷ 10 như là một trung tâm gốc rễ và lâu bền nhất của các hoạt động chính trị đưa đến độc lập cho Việt Nam.
Châu Trường nằm dọc theo vùng đất cao ở phía bắc châu Ái và bao gồm vùng cực nam của đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên phần đồng bằng trực thuộc châu Trường không thuận lợi làm nông nghiệp vì lúc đó hệ thống đê điều sông Hồng chưa được nối xuống đến vùng này. Dân số tương đối ít ỏi của châu Trường chủ yếu sinh sống bằng nghề đánh bắt cá và săn thú. Ngày tháng thành lập châu Trường không được ghi lại trong những cuộc cải cách hành chánh vào nửa đầu thế kỷ 7 nhưng châu Trường lại có tên trong kỳ kiểm kê dân số vào năm 740. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng châu Trường đã được thành lập cùng thời với châu Phúc Lộc trong những năm 660 như là một nỗ lực để nhà Đường kiểm soát chặt chẽ khu vực duyên hải tiếp cận với các trung tâm dân cư ở vùng hạ lưu. Châu Trường có vị trí chiến lược quan trọng vì nó khống chế con đường bộ chạy dọc theo bờ biển từ đồng bằng sông Hồng đi xuống miền Nam.
Châu Phong bao gồm các vùng đất nơi mà sông Hồng và các sông nhánh từ các vùng núi cao đổ về đồng bằng vì thế châu Phong được dùng làm đại bản doanh để kiểm soát toàn thể vùng sâu, vùng xa của đồng bằng sông Hồng và sông Mã. Có ít nhất 28 "châu độn" chạy dài mãi tới tận Vân Nam thuộc địa hạt châu Phong. Vì nhiệm vụ chiến lược của châu Phong dưới thời nhà Đường là bảo vệ Giao Chỉ chống lại các bộ tộc ở núi, nên suốt thế kỷ 9 khi nhà Đường gặp mâu thuẫn với các bộ lạc miền núi, châu Phong đã trở thành sân khấu của những vụ xung đột kéo dài.
Trung tâm quản trị dân số và hành chánh của Đô Hộ Phủ được đặt ở Giao Châu và chịu ảnh hưởng của Trung Quốc rất nhiều vì đây là nơi mà đông đảo nông dân sống quần tụ quanh lưu vực sông Hồng và đây cũng là địa điểm tiếp xúc của Trung Quốc với Việt Nam từ xưa đến giờ. Trong thời nhà Đường, Giao Châu là vùng đất đầu tiên được tiếp nhận văn minh Trung Quốc qua việc bị đô hộ theo thể thức hành chánh châu quận có ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu dài đến thế. Trong khi sự đối kháng ảnh hưởng Trung Quốc tại các châu khác được củng cố nhờ yếu tố địa dư thì Giao Châu nằm hoàn toàn trong vòng cương tỏa của vương triều, và ngày càng quen với những ý tưởng và tổ chức xã hội của Trung Quốc. Những đòi hỏi và yêu sách của các quan Tổng Quản Giao Châu lâu ngày thành nếp đã khuất phục được thái độ chống đối trong cách cư xử của dân chúng địa phương; những trường học được dựng lên, và những gia đình địa phương có tham vọng nay tiếp nhận được nền giáo dục kiểu Trung Quốc với một tư duy rập khuôn theo vương triều.
Tuy nhiên, trong các đền chùa, những tín ngưỡng cổ xưa vẫn được duy trì dưới sự che chở của Phật Giáo và của một loạt các vị thần linh xuất thân từ di sản văn hoá bản xứ. Viễn ảnh văn hoá Việt Nam dựa trên nền tảng của sự thờ cúng thần linh trong bối cảnh linh động Phật Giáo giúp Giao Châu đã trở thành trung tâm của Phật Giáo Việt Nam. Chính những viễn ảnh ấy sau này đã trở thành đỉnh cao văn hoá của một quốc gia độc lập khi Việt Nam chuyển mình tự chủ thoát ách đô hộ từ thế kỷ thứ 10 cho đến sau này.
Thật ra Giao Châu đã không trải qua một nền hành chánh rập khuôn theo kiểu Trung Quốc vì Trung Quốc chỉ luôn coi Giao Châu như là một địa hạt ở biên giới mà dân cư toàn là “bọn man di” không phải là người Trung Quốc; nhưng Giao Châu lại học được các kinh nghiệm của Trung Quốc nhiều hơn bất cứ châu nào khác. Năm 622, tám châu được lập ở đó và năm 627, những châu này đổi thành 8 quận và được gộp cả vào Giao Châu.
Trước thời nhà Đường, nhà Tùy đã từng lập một trung tâm hành chánh ở vùng phụ cận Hà Nội bây giờ. Năm 618, vì lo sợ Ninh Truờng Chân tấn công, Khâu Hoà đã cho xây một thành nhỏ có chu vi khoảng 900 bước được gọi là "Tử Thành" theo cách gọi của Trung Quốc đối với một thành lũy tọa lạc ngay giữa một khu dân cư đông đúc. Đây cũng chính là nơi mà khi xưa Lý Bí đã xây đồn lũy để chống Trần Bá Tiên trong trận đánh thứ nhì vào năm 545. Tử Thành được xây dựng ở bờ nam sông Hồng ngay mép nước triều lên cao nhất vào mùa khô. Lần đầu tiên được thiết lập như một địa hạt hành chánh riêng biệt vào giữa thế kỷ 5, nhờ đê điều đã được đắp dọc theo sông Hồng xuống tận đó, nên khu vực này đã trở thành một trung tâm chính trị đặc biệt dưới thời nhà Tùy và nhà Đường. Chính nơi đây viễn ảnh một nền hành chánh mở rộng của bắc triều đã được ghi nhận qua việc đặt trụ sở chính quyền trung ương địa phương tại phía nam sông Hồng.
Với vị trí dọc theo bờ biển phía bắc đồng bằng sông Hồng, khi mới được thành lập đầu vào năm 535 thì châu Lục có tên châu Hoàng nhưng vào năm 598 bị đổi tên thành Lục bởi Lịnh Hồ Hi. Năm 622, châu Lục lại được nhà Đường tổ chức thành một châu nhưng rồi lại bị bãi bỏ, và sau đó lại được đặt dưới quyền một châu khác ở về phía bắc vào năm 628. Đến năm 650, châu Lục lại tái xuất hiện thành một châu riêng biệt. Tên Lục, nghĩa là khô, "đất khô" bắt nguồn từ việc châu này có một con đường đất khô nối liền các bờ biển ở phía "bắc vùng duyên hải Quảng Đông" với các bờ biển ở "vùng biên giới phía nam" Việt Nam. Sách chép cho rằng châu này "nằm trong một vùng duyên hải nghèo nàn mà rau đậu không mọc được và dân chúng chằng phân biệt lụa với bông là gì vì đa phần sống nhờ biển". Châu Lục nằm trên ranh giới giữa Đô Hộ Phủ và đất vương triều do đó thường chịu sự kiểm soát trực tiếp nhiều hơn từ phía bắc.
Xem xét lại phần hành chánh và địa lý của Đô Hộ Phủ cho thấy có sự cách biệt lớn giữa các châu về phương diện dân số và chức năng. Nói chung các châu đều là những bộ phận của đô hộ phủ nhưng không phải vì thế mà không thiếu những nét đặc thù của từng châu.
Các châu Giao, Phong, Ái và Hoan nằm trong những phần đất thấp và phì nhiêu nơi dân cư tập trung đông đúc. Châu Giao là châu lớn hàng đầu, có quan hệ mật thiết nhất với nhà Đường. Châu Phong với đặc điểm ở gần núi non nên giữ vai trò của bảo vệ miền biên giới châu Giao. Châu Ái tương đối không bị những thế lực bên ngoài khuấy rối nên khó mà đi vào khuôn khổ theo kiểu cai trị của nhà Đường như các châu khác. Việc châu Ái hưởng ứng mạnh mẽ ý tưởng độc lập của Việt Nam vào thế kỷ thứ 10 là bằng chứng hùng hồn cho thấy rằng, trong tất cả các khu vực thuộc lãnh thổ Việt Nam sau này, châu Ái là châu kế thừa và bảo tồn truyền thống Việt Nam được nhiều nhất trong suốt thời kỳ nhà Đường đô hộ. Châu Hoan nhỏ và hẻo lánh, một mặt có cơ hội tiếp xúc chặt chẽ với các châu láng giềng ở miền Nam và miền Tây, nhưng đồng thời phải chịu đựng những khuấy phá và tấn công liên tục do những khác biệt về biên giới địa lý và văn hóa. Châu Diễn và châu Phong có nhiệm vụ giữ an ninh các vùng núi ở sâu và xa cũng như ba vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã, và sông Cả. Còn các châu Phúc Lộc, Diễn, Trường và Lục, giữ an ninh những vùng bờ biển và làm trái độn giữa vùng đồng bằng với vùng biên cương Lâm Ấp cũng như các áp lực từ phía Bắc triều.
Năm 742, tất cả những châu này lại một lần nữa bị hạ xuống cấp quận, và đúng 16 năm sau, tức là vào năm 758, tổ chức hành chánh các châu theo kiểu cũ lại được phục hồi. Đây là lần thay đi đổi lại cuối cùng trước khi diễn ra cuộc nổi dậy của An Lộc Sơn ở Trung Quốc. Cuộc nổi dậy của An Lộc Sơn (756 – 763) đã khiến nhà Đường rơi vào cảnh rối loạn đảo điên nên tạm thời Trung Quốc không có thời gian và thế lực để gây áp lực lên miền biên giới phía nam.
việt nam khai quốc: kiểm tra dân số (chương 5, phần 2)
Trong thời kỳ đô hộ An Nam Đô Hộ Phủ nhà Đường đã tiến hành kiểm tra dân số tất cả 5 lần với các con số được lưu lại trong thư tịch theo Bảng 5. Theo bảng thống kê dân số này thì số dân kiểm tra lần đầu tiên là theo “số liệu cũ”, có lẽ vào khoảng đầu thế kỷ 8. Lần kiểm tra dân số thứ nhì, vào thời Khai Nguyên (713-741) có thể được thực hiện vào năm 726. Thống kê dân số cho năm 740 và chỉ hai năm sau đó, nhân dịp Trung Quốc lấy niên hiệu mới vào năm 742, thì chẳng khác nhau với một chỗ sai biệt rõ ràng là do “tam sao thất bổn”.
Lần kiểm tra dân số An Nam Đô Hộ Phủ cuối cùng của nhà Đường là vào năm 807. Trong lần kiểm tra này dân số châu Hoan và châu Ái đã giảm xuống rõ rệt vì hậu quả chiến tranh trong các năm 803-809 với Hoàn Vương (Lâm Ấp). Phần nữa, vì được tách thành một châu riêng, nên Châu Diên đã chia bớt dân số của châu Hoan.
Bảng 5. THỐNG KÊ DÂN SỐ TẠI AN NAM ĐÔ HỘ PHỦ THỜI NHÀ ĐƯỜNG | ||||||||
Năm | Số Liệu Cũ | 726 | 740 | 742 | 807 | |||
Châu | Hộ | Nhân Khẩu | Hộ | Hộ | Nhân Khẩu | Hộ | Nhân Khẩu | Hộ |
Giao | 17.523 | 88.788 | 25.690 | 24.730 | 99.660 | 24.230 | 99.652 | 27.135 |
Phong | 5.444* | 6.435 | 3.561* | 1.920 | 5.119 | 1.920 | ……. | 1.483 |
Ái | 9.080 | 36.519 | 14.056 | 40.700* | 135.030* | 14.700 | ……. | 5.379 |
Hoan | 6.579 | 16.689 | 6.649 | 9.629 | 53.818 | 9.619 | 50.818 | 3.843 |
Lục | ……. | ……. | 1.934* | 490 | 2.710 | 494 | 2.674 | 231 |
Trường | ……. | ……. | 630 | 3.040 | ……. | ……. | 648 | |
Diên | (gộp trong châu Hoan) | 1.450 | ||||||
Phúc Lộc | ……. | ……. | ……. | ……. | ……. | ……. | ……. | 317 |
Tổng Cộng | 148.431 | 40.963 | 40.486 |
* Rõ ràng là con số nhầm lẫn
Tài liệu: Cựu Đường Thư 41, 42b-46b; Tân Đường Thư 43a, 9b-11a
Nguyên Hoà Quận Huyện Chí, Thượng Hải, 1935-37
Thông Điển 174, 50a – 51a Thượng Hải 1902
Thái Bình Hoàn Vũ Chí. 171, 11b, Taipei 1963
Từ những ô bỏ trống và những con số sai biệt rõ ràng trong Bảng 6 chúng ta chỉ có thể so sánh dân số trong “số liệu cũ” với dân số năm 742 đối với châu Giao và châu Hoan, 2 châu duy nhất có số thống kê đầy đủ. Qua so sánh cho thấy sự gia tăng bất bình thường về số dân đăng ký vào thế kỷ 8. Không giống những thời kỳ ổn định trước đời Đường, việc di cư của người Trung Quốc vào Việt Nam đã tạo ra những thay đổi cơ bản đối với một vài khu vực trong xã hội Việt Nam. Ảnh hưởng của những người di cư đến Giao Châu được thấy rõ qua số hộ dân đã tăng lên 3 lần mau hơn số dân, nghĩa là số nhân khẩu bình quân trong mỗi hộ đã giảm đáng kể.
Ngược lại phần châu Hoan thuộc phía nam của An Nam Đô Hộ Phủ thì số dân tăng 4 lần mau hơn số hộ nghĩa là số nhân khẩu bình quân trong mỗi hộ đã tăng quá gấp đôi. Nguyên nhân của sự khác biệt giữa châu Giao và châu Hoan trong vấn đề dân số là vì dân chúng di cư đến châu Hoan từ nhiều vùng khác nhau, trong khi phần lớn người di cư đến châu Giao là từ Trung Quốc như đã trình bày ở trên.
Di dân Trung Quốc nhập cư Việt Nam với tư cách cá nhân hay từng hộ nhỏ. Phần lớn họ là binh sĩ hay thương nhân Trung Quốc di cư đến Việt Nam, lập gia đình với phụ nữ địa phương, rồi quyết định ở lại đó. Cũng có một số khá đông là những người bị Trung Quốc lưu đầy nên thường chỉ đến một mình hoặc với một vài người trong gia đình. Ngoài ra, lại có một số quan chức ở lâu, thích cảnh vật và quyết định ở lại. Các loại người di cư này đã khiến số nhân khẩu bình quân trong mỗi hộ dân ở Giao Châu đi xuống. Ngược lại, ở châu Hoan, do người di cư đến thành từng nhóm đông với họ hàng thân thuộc, phe phái, thị tộc nên số nhân khẩu trung bình trong mỗi hộ đi lên. Nói vắn tắt, những người từ Trung Quốc di cư làm thay đổi xã hội Việt Nam ở phía Bắc và những người di cư từ nhiều nơi khác làm thay đổi xã hội Việt Nam ở phía Nam.
Thế kỷ thứ 8 là thời kỳ có rất nhiều bất ổn đặc biệt ở vùng biên giới phía nam. Năm 722, như sẽ được trình bày chi tiết sau, có một lãnh đạo địa phương ở châu Hoan đã tập hợp được một đạo quân lớn gồm đủ mọi sắc dân và tạm thời đuổi được nhà Đường ra khỏi An Nam Đô Hộ Phủ. Đạo quân gồm đủ mọi sắc dân này đến từ nhiều vùng ở Đông Nam Á theo sau một loạt các cuộc di cư mà đến nay các nhà sử học vẫn chưa tìm hiểu được rõ lý do và nguồn gốc của họ.
Đầu năm 758, tài liệu của Trung Quốc có nhắc đến danh hiệu Hoàn Vương thay vì Lâm Ấp và năm 877 lại nói đến Chiêm Thành hay Champapura. Thời Hoàn Vương, vương quốc Chàm nằm phụ cận Nha Trang và Phan Rang bây giờ, và ở quá phía Nam Lâm Ấp. Đầu năm 875, lại có một triều đại mới khác xuất hiện ở vùng phụ cận Đà Nẵng ngày nay. Các mối bất ổn và nổi dậy như thế ở phía Nam đã tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ về dân số ở châu Hoan vì nhiều phe phái và các thị tộc sau khi vượt qua biên giới vào năm 722 có lẽ đã ở lại và định cư ở châu Hoan. Khi vương quốc Chàm mở rộng về phía Nam, rồi lại ngược bờ biển tiến lên phía bắc thì nhiều nhóm dân chắc chắn đã trú ngụ lại châu Hoan nơi đang chịu ách đô hộ của nhà Đường. Cũng sau biến cố năm 722 rất có thể đã có nhiều binh sĩ nhà Đường quyết định ở lại Giao Châu như được thấy trong bản thống kê dân số.
Khi so sánh bảng 4 với bảng 5, ta thấy số dân được kiểm tra của nhà Tùy phần nào cao hơn nhà Đường. Có thể một phần là vì những phương pháp tính toán khác nhau nhưng lý do cơ bản là nhà Tùy đã chiếm được Việt Nam mà không phải đánh một trận nào và kiểm soát ngay được một xã hội đã và đang phát triển một cách tự chủ trên một nửa thế kỷ rồi. Mặc dù nhà Tùy sau này phải đương đầu với những làn sóng nổi dậy mạnh mẽ ở Việt Nam đến nỗi phải sai Khâu Hoà xuống bình trị nhưng cần hiểu rằng những con số thống kê này nhà Tùy đã thu thập trước khi những rối loạn đó có thể gây ra những tác động về dân số.
Bảng 6. So Sánh Kiểm Tra Dân Số từ “Số Liệu Cũ” và Kiểm Tra Năm 742 tại Châu Giao và Châu Hoan | |||||
Châu | % Gia Tăng Số Dân và Số Hộ | Số nhân khẩu tính bình quân trên mỗi hộ dân | Nhân khẩu bình quân tăng/giảm trên mỗi hộ dân | ||
Số Dân | Số Hộ | “Số liệu cũ” | 742 | ||
Giao | 38% | 12% | 5,1 | 4,1 | -1 |
Hoan | 46% | 204% | 2,5 | 5,3 | +2,8 |
Kiểm tra dân số của nhà Đường lại có từ sau khi những vụ nổi loạn lớn, năm 687 và 722; sau một thời kỳ hỗn loạn và hầu như độc lập của Việt Nam vào cuối thế kỷ 8. Chúng ta có thể nghĩ rằng những con số kiểm tra dân số thấp của nhà Đường phản ánh ảnh hưởng của các cuộc bạo động chính trị đối với dân số.
Rập khuôn các bắc triều trước đó, những con số thống kê về dân số của nhà Đường tại Việt Nam chỉ bao gồm phần dân chúng mà họ kiểm soát được. Trong một thế kỷ rưỡi đầu tiên khi nhà Đường đô hộ Việt Nam, thì chỉ có 3 trong số 6 loại người phải đóng thuế được gồm trong bản kiểm tra. Do đó không thể biết chính xác bao nhiêu phần trăm số dân trong bản kiểm tra tính trên tổng số dân thực sự mà chỉ ước chừng vào khoảng từ 10% đến 30% của tổng số dân thực sự sinh sống tại An Nam Đô Hộ Phủ mà thôi.
Các hồ sơ của nhà Đường thì cho rằng Giao Châu chiếm phân nửa tổng số dân đăng ký trong toàn An Nam Đô Hộ Phủ. So sánh với kiểm tra dân số cũ, Giao Châu chiếm 64,2% tổng số dân đăng ký; năm 742 chiếm 47,5% tổng số hộ dân đăng ký. Đến năm 807, con số này đã tăng lên 67%, mặc dù số tăng này có thể do một phần những chiến cuộc ở Ái và Hoan. Trong tất cả các châu thuộc An Nam Đô Hộ Phủ, bốn châu Giao, Phong, Ái và Hoan chiếm gần như toàn bộ số dân đăng ký thì đều ở vùng đất thấp, gồm những cộng đồng nông nghiệp đã định cư. Số kiểm tra ở các châu khác có thể tiêu biểu cho những khu canh tác khác trong vùng núi hay vùng đất duyên hải nơi mà cuộc sống nay đây mai đó rất khó kiểm soát. Tất cả những điều kể trên dường như xác nhận ý kiến cho rằng đời sống kinh tế và xã hội của Đô Hộ Phủ không dựa vào buôn bán, mà căn bản hơn là vào tầng lớp dân chúng chính thức làm nông nghiệp theo thời vụ.
Cũng cần nói thêm rằng số dân đăng ký trong các bảng kiểm tra dân số ấy không thể phản ánh toàn cảnh xã hội Việt Nam vì chưa tính đến một số khá lớn người Việt tìm đến sống ở những vùng cao hay những khu xa xôi ở ven vùng đất thấp, nơi áp lực của bắc triều không đủ mạnh. Tổ tiên của người Mường sống ở các vùng đất cao giữa sông Hồng và sông Cả không chịu ảnh hưởng văn hoá, ngôn ngữ của nhà Đường như những đồng bào của họ ở vùng đất thấp. Hơn nữa họ cũng chẳng bao giờ được tính đến trong bất cứ một cuộc kiểm tra dân số nào của nhà Đường cả.
Khi so sánh số dân được kiểm tra trong thời gian Việt Nam bị đô hộ từ thời nhà Hán đến nhà Đường, ta sẽ lần ra đầu mối để tìm hiểu gốc gác của người Mường. Thống kê dân số thời nhà Hán sai biệt quá nhiều so với những thế kỷ đô hộ về sau. Thí dụ như cuộc kiểm tra làm năm 2 SCN thời Hán cho thấy có tới 950.000 người Việt Nam, trong khi theo nhà Đường thì dân số lại chưa đến 150.000, nghĩa là dân số hơn 8 thế kỷ sau mà lại giảm đi hơn 80%! Cũng không thể cho rằng thống kê của nhà Hán đã được thổi phồng lên vì các quan chức phải nộp cuống biên lai thu thuế bằng với số dân đã kiểm tra trong địa hạt do đó họ thường báo cáo số dân ít hơn số dân thực sự chứ không đời nào lại báo nhiều hơn để bị khép vào tội lấy thuế dân làm của riêng.
Có một số ý kiến cho rằng dân số Trung Quốc nói chung sụt giảm nhiều từ thời Hán đến thời Đường là hậu quả của các cuộc nổi loạn và chiến tranh thời Hán và cả sau khi nhà Hán lụi tàn. Nhưng điều giải thích cơ bản hơn là việc có thêm nhiều đại gia đình địa chủ khiến những nông dân trước kia từng được đăng ký độc lập như một cá thể nay trở thành tá điền hay “nông nô” nên không còn được tính trong số dân phải nộp thuế nữa.
Riêng tại Việt Nam, vì hậu quả hoặc nhân cơ hội những cuộc binh biến giữa Lâm Ấp và các địa hạt của Việt Nam thời bị trị, nhiều người Việt đã chạy trốn xuống Lâm Ấp để tránh sự cai trị hà khắc của Trung Quốc hoặc đến định cư tại những vùng núi cao tại Việt Nam nơi mà sự cai trị của Trung Quốc lỏng lẻo hơn nhờ địa lý hiểm trở ít quan lại lui tới hay các điều kiện xã hội, kinh tế ở đó. Điều này cắt nghĩa gốc gác của người Mường, một sắc tộc sống ở vùng cao nguyên nam sông Hồng và có ngôn ngữ và văn hoá rất giống với người Việt Nam. Các học giả Việt Nam ngày nay tin rằng ngôn ngữ Mường và Việt chỉ bắt đầu phân nhánh khi họ bị nhà Đường đô hộ hoặc sau khi Việt Nam không còn chịu ách đô hộ của Trung Quốc nữa. Trước đó các giao lưu văn hóa giữa đồng bằng và các vùng núi ở Việt Nam rất dễ dàng theo kiểu xã hội bộ lạc và không có những khuôn mẫu trí tuệ định chế theo kiểu Trung Quốc dưới các triều đại Việt Nam trong thời kỳ độc lập sau này.
Dân số Mường gia tăng trong thời nhà Đường đô hộ đã giải thích tại sao lại có sự giảm bớt số dân tại An Nam Đô Hộ Phủ trong bảng kiểm tra dân số so với thời nhà Hán đô hộ vì những người sống trong vùng cao nguyên chẳng mấy khi chịu đăng ký hộ khẩu. Người Tày và người Nùng ở các vùng núi phía bắc Việt Nam, gần biên giới Trung Quốc cũng đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Việt Nam thời thượng cổ. Chưa kể đến người các người Việt thiểu số như Mon Khmer, người Malai Pôlinisi và một số rất lớn dân chúng sống nổi trôi dưới vùng đồng bằng, ngoài các con đê, sống bằng nghề biển hay hàng hải ngoài biển xa nơi mà việc kiểm soát trực tiếp của nhà Đường chẳng bao giờ đến được.
Việc đô hộ và thu thuế của Trung Quốc tại Việt Nam lấy trọng tâm là tầng lớp nông dân định cư ở các vùng đất thấp. Tuy phải đăng ký và chịu sưu cao thuế nặng cho các quan lại Trung Quốc, người Việt Nam vẫn luôn gìn giữ bản sắc của họ. Họ không bao giờ đánh mất ngôn ngữ và vẫn diễn tả những cảm xúc hay tư tưởng của họ một cách rõ rệt. Họ không bao giờ mất lòng tin ở quá khứ và luôn trân trọng các di sản văn hóa. Bằng cách bảo tồn di sản ấy, họ đã để lại dấu ấn của họ, không những qua các con số trong các bảng kiểm tra dân số còn lưu lại đến nay mà cả trong thực tế kế thừa của một nước Việt Nam độc lập.
Các thống kê dân số từ thời Hán đến thời Đường tại các vùng bị trị Quảng Đông, Quảng Tây, và Việt Nam ngày nay cho thấy rằng, so với Việt Nam, khu vực Quảng Đông, Quảng Tây đã có nhiều thay đổi về dân số do dân nhập cư từ Trung Quốc. Kiểm tra dân số vào năm 2 SCN thời nhà Hán đô hộ cho thấy 67% các hộ dân đăng ký ở ba vùng ấy là người Việt Nam nhưng đến thời Đường theo “số liệu thống kê cũ” thì con số này đã giảm xuống chỉ còn 13%. Nếu tính theo số hộ dân thì thống kê vào năm 2 SCN cho thấy có 71.805 hộ ở Lưỡng Quảng và sau đó tăng lên 274.696 hộ theo “số liệu cũ” thời Đường, tức là gia tăng gần 400%. Ngược lại, số hộ dân đăng ký ở các vùng thuộc Việt Nam ngày nay là 143.643 trong kỳ thống kê năm 2 SCN và xuống còn chưa đến 40.000 hộ theo “số liệu cũ” đời Đường. Những thống kê này cho thấy rằng khuôn mẫu di cư vào các vùng thuộc Việt Nam ngày nay rất khác biệt với những gì xảy ra ở Lưỡng Quảng. Điều này cũng chứng tỏ sự đối kháng mạnh mẽ của dân chúng tại những vùng thuộc Việt Nam ngày nay đối với ách thống trị của Trung Quốc đối với việc đăng ký dân số và thu thuế. Áp lực thống trị của Trung Quốc bị giảm thiểu ấy có lẽ bắt nguồn từ những gia đình địa phương có thế lực cũng như thế phòng thủ đầy ngõ ngách của miền biên giới cao nguyên Việt Nam.
việt nam khai quốc: NHỮNG NGƯỜI ĐI HÀNH HƯƠNG VÀ NHỮNG THƯƠNG NHÂN (chương 5, phần 3)
Trong thế kỷ 7 và đầu thế kỷ 8, vì đế quốc Đường củng cố được sự cai trị trên phần lớn châu Á Châu khiến nhiều Phật tử ở Đông Á có dịp đi hành hương đất Phật ở Ấn Độ và Tích Lan. An Nam Đô Hộ Phủ là địa điểm quan trọng vì các chuyến hành hương bằng đường biển xuất phát từ đây theo. Các Phật tử Việt Nam cũng nhân cơ hội này tham dự các chuyến hành hương cho thoả lòng mong ước.
Các thông tin về vài chuyến hành hương như vậy của Trung Quốc vào thời đó còn được lưu giữ đến ngày nay. Minh Viễn, quê ở Tứ Xuyên, đã xuống tàu từ An Nam Đô Hộ Phủ. Đến Java thì nghỉ chân, rồi thẳng tới Tích Lan và Ấn Độ. Một người khác, quê ở Hồ Bắc là Vô Hành, cũng đã xuống tàu ở An Nam Đô Hộ Phủ để đi Ấn Độ; trên đường ông dừng chân ở Sumatra và trở thành bạn đồng hành của một người có tên tuổi là Nghiã Tịnh (635-713). Lại có một khách hành hương nữa ở Hồ Bắc tên là Huệ Minh, nhưng ông này không may mắn bị gặp bão ngoài khơi Lâm Ấp và phải quay về Trung Quốc qua đường An Nam.
Phần đông người Trung Quốc đi hành hương Ấn Độ chỉ ghé qua An Nam như một trạm dừng chân, có những người đã ở lại An Nam khá lâu và góp sức vào các hoạt động Phật Giáo ở đây. Trí Hoằng, người Lạc Dương, đã ở lại An Nam một năm trời trước khi tiếp tục lên đường đi Ấn Độ qua ngả Sumatra. Đàm Nhuận, cũng người Lạc Dương, đã tá túc ở An Nam để tránh một đợt gió mùa và được dân địa phương rất quý trọng vì tính tình thẳng thắn của ông. Khi ông tiếp tục cuộc hành hương sang Ấn Độ thì có một người Giao Chỉ là Văn Ký đi theo.
Nhưng không may Đàm Nhuận chết ở dọc đường, tại một nơi gần đảo Java, còn Văn Kỳ quyết định ở lại. Trong thời gian ở đó Văn Kỳ đã đọc thông viết thạo tiếng Phạn và tiếng Mã Lai (K’un Lun). Về sau, một người Trung Quốc hành hương khác là Hội Ninh ở Java và một nhà sư ở Java tên Jnanabhadra cũng dịch một ít kinh Phật sang tiếng Trung Quốc và Văn Kỳ được giao nhiệm vụ đem những bản dịch ấy về Trung Quốc.
Về lại Giao Chỉ khoảng những năm 670, Văn Kỳ đi thẳng lên kinh đô để trình những bộ kinh Phật đã được dịch lên vua Đường. Trên đường sang Java một lần nữa để chuyển lại thông điệp của triều đình nhà Đường cảm ơn các dịch giả, Văn Ký đã nán lại An Nam Đô Hộ Phủ để thuyết pháp trong cộng đồng Phật Giáo và trong dân chúng địa phương nên khi đến Java thì Huệ Ninh đã khởi hành đi Ấn Độ rồi thế là Văn Kỳ đành ở lại Sumatra.
Cũng vào cuối thế kỷ 7, một người quê quán ở Trung Á tên là Sanghavarma đã hành hương sang tận Ấn Độ và sau đó được triều Đường phái xuống Giao Châu để làm thuốc. Vì những hoạt động từ thiện nhân một nạn đói ở đó khiến Sanghavarma được dân chúng tôn thờ và coi như một vị Bồ Tát.
Gương đức hạnh và lòng sùng đạo của những người đi hành hương từ Trung Quốc đã được nhiều Phật Tử Việt Nam noi theo. Một người quê ở Giao Châu là Mộc Xoa Đề cũng đi theo con đường ấy qua các đảo ở Nam Á để tới Ấn Độ. Khuy Sung, một người hành hương nữa cũng ở Giao Châu, đi theo Minh Viễn tới Java, Tích Lan rồi đến Ấn Độ. Người thứ ba, cũng quê ở Giao Châu, là Huệ Diễm, theo sư phụ của ông đến Tích Lan. Một người ở châu Ái là Trí Hạnh, đi qua các vùng đảo ở phía nam biển Đông để tới Ấn Độ. Đại Thắng Đặng cũng từ Ái Châu đi Thái Lan lúc còn niên thiếu và sau đó đã sống ở kinh đô Đường trước khi theo con đường hành hương qua các đảo ở Nam Hải và Tích Lan để đến Ấn Độ, nơi đó, ông gặp và kết bạn với Nghĩa Tịnh.
Những người hành hương theo chân các thương nhân xuống tàu sang Java và Ấn Độ từ các cảng ở An Nam Đô Hộ Phủ. Không thể có một kỷ nguyên mà các chuyến hành hương lại dễ dàng và tấp nập như thế nếu không có một nền giao thương hàng hải quốc tế sinh động, vì những người hành hương chỉ việc đi theo các hải lộ của các thương thuyền. Xét về mặt tôn giáo đây là thời kỳ hành hương tấp nập nhưng phải hiểu rằng đó là nhờ giao thương hàng hải đã phát triển trên quy mô rộng rãi.
Một lần nữa, người đọc hiểu rằng người Việt Nam đã gắn kết chặt chẽ với thế giới biển ở Đông Nam Á như thế nào. Ranh giới văn hoá giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã được cải thiện nhờ di sản chung là Phật Giáo, nhất là trong thời đại thế giới chủ nghĩa của nhà Đường. Những Phật tử Trung Quốc và Việt Nam du hành đến những tiểu quốc trên các đảo ở Đông Nam Á để trau dồi tiếng Phạn trước khi đặt chân lên đất Phật. Những chiếc tàu chở đầy hàng hoá mà họ tháp tùng là do những thương nhân làm chủ.
Thời đại của những người đi hành hương và thương nhân đã là một chủ đề nổi bật của lịch sử vùng Đông Nam Á mà trong đó có Việt Nam: chủ đề về giao thương và tiếp xúc hàng hải luôn được coi là nguồn gốc của nền văn minh.
NHỮNG NGƯỜI BỊ LƯU ĐẦY
Tuy nhiên, ở miền Nam những tiếp xúc chặt chẽ nhất vẫn là từ phương Bắc với làn sóng các binh sĩ, quan lại, hoàng thân và cả những quan chức bị lưu đầy từ phương Bắc tiếp tục kéo xuống miền Nam. Một trong những đô đốc đầu tiên của Giao Châu là một người trong hoàng tộc nhà Đường tên là Lý Thọ. Đường Thái Tôn lên ngôi năm 627 với nhiều cải cách khiến Lý Thọ bị sa thải về tội tham nhũng. Sau đó Đường Thái Tôn cho đòi Lữ Tổ Thượng, một quan chức có tài và có danh tiếng đến và bảo: “Giao Châu là một vùng biên giới rộng lớn, cần phải có quan chức tốt trông coi nhưng cho đến bây giờ chưa có một đô đốc nào làm đầy đủ nhiệm vụ cả. Xét thấy ngươi có khả năng, vậy hãy đi và phòng thủ Giao Châu cho trẫm. Không được viện lẽ xa xôi mà từ chối.”
Lữ Tổ Thượng vâng vâng dạ dạ nhưng về sau lại viện cớ bịnh hoạn và chẳng chịu đi xuống miền Nam nhậm chức mới. Sau nhiều lần sai sứ giả đến giục ông lên đường nhưng không được, Đường Thái Tôn sai chính anh rể của Lữ Tổ Thượng đến để phân giải cho ông nghe. Sau khi nghe anh rể nói hết lời về danh dự và bổn phận, Lữ Tổ Thượng trả lời: “… miền Nam có nhiều bệnh sốt rét hoành hành; nếu đệ đi đến đó thì sẽ chẳng có ngày về.”
Thái độ ngoan cố của Tổ Thượng khiến Đường Thái Tôn nổi giận và thét đao phủ đem ông ra chém đầu vì tội bất tuân. Việc này cho thấy sự lựa chọn giữa nhát chém của đao phủ và khả năng mất mạng khi vướng phải sơn lam chướng khí dẫn đến việc nhiều quan chức bị giáng cấp và lưu đầy biệt xứ đã trở thành một phương cách để bố trí các quan lại nhà Đường xuống miền Nam làm việc. Ví dụ như năm 635, Lý Đạo Hưng, một người trong hoàng tộc nhà Đường bị đổi xuống làm Đô Đốc Giao Châu như một cách trừng phạt về một tội phạm không được ghi vào hồ sơ; và ông này đã chết vì bịnh hoạn trong vòng chưa tới một năm sau khi nhận nhiệm sở.
Danh sách những người Trung Quốc bị lưu đày xuống Nam rất dài và gồm nhiều người có tên tuổi như Đỗ Chính Luân đã được Đường Thái Tôn bổ làm phụ tá cho Hoàng Thái Tử; nhưng khi Thái Tử âm mưu cướp ngôi vua năm 643 thì Đỗ Chính Luân bị giáng chức xuống làm Đô Đốc Giao Châu.
Tương tự như thế, sau âm mưu phản nghịch của Phòng Di Ái năm 652 bị bại lộ lại có thêm những kẻ bị lưu đày mới. Anh của Văn Bi và em của Sài Triết Uy vì can dự vào âm mưu này nên cả hai đều bị nghi ngờ và bị đày xuống miền Nam. Về sau, Triết Uy được vua khoan hồng với cơ hội chuộc tội là chịu đi làm Đô Đốc Giao Châu.
Sau năm 655, Lý Nghĩa Phủ, một quan đại thần có thế lực trong triều và Đỗ Chính Luân được phục hồi chức vị dưới sự bảo trợ của Võ Hoàng Hậu (Võ Tắc Thiên). Hai ông này sau đó lại cho rằng nhà thư pháp danh tiếng, Chử Toại Lương, là trở ngại lớn cho kế hoạch của họ nên ghép Chử Toại Lương vào tội bất trung và giáng xuống làm Đô Đốc một châu trong tỉnh Hồ Nam ngày nay. Đầu năm 657, Chử Toại Lương lại bị giáng chức xuống nữa, làm Đô Đốc Quế Châu, ở Quảng Tây. Bốn tháng sau, Lý Nghĩa Phủ lại buộc tội Chử Toại Lương đã mưu toan dùng Quế Châu làm căn cứ ly khai và giáng xuống chức Đô Đốc châu Ái. Chử Toại Lương sau khi đến Ái Châu thì thảo ngay một tờ biểu về triều để tâu trình ngọn ngành là mình vô tội, nhưng chẳng đạt được kết quả gì. Khi ông chết vào cuối năm 658; hai người con trai của ông, cũng bị đi đày với ông, đều bị ám hại chết.
Chưa hết, vì nhà Đường thay đổi chính sách liên miên nên năm 658, đến lượt Nghĩa Phụ và Chính Luân bị buộc tội mưu phản và bị đày xuống Quảng Tây. Trớ trêu rằng chỉ vài tháng trước đó, Chính Luân còn khuyến cáo rằng có quá nhiều người bị lưu đày thì nay đã xảy ra chuyện như thế. Mặc dầu Nghĩa Phụ sau đó thoát nạn trở về Bắc và có gây dựng được thanh thế trở lại, nhưng Chính Luân phải chịu để nắm xương tàn ở miền Nam.
Thông thường, một người càng bị tội nặng bao nhiêu, càng bị đày xa xuống miền Nam bấy nhiêu cho nên Lý Thọ, một thân quyến của Lý Nghĩa Phụ và bộ hạ của Chính Luân bị đày xuống châu Hoan. Trước năm 628, Bùi Thiện Thông, một hầu cận của Dương Hoàng đế nhà Tùy, cũng bị tống xuống châu Hoan vì bị triều đình nghi kỵ. Sau này có Lý Càn Hữu, một Thứ sử ở Hồ Bắc bây giờ, bị đày xuống châu Hoan vì đã viết những bài văn châm biếm chính sách triều đình. Đến cuối thế kỷ 7, Nghiêm Thiên Tư, một quan ngự sử có uy tín, nhưng bị khép tội tham nhũng và cũng bị đày xuống châu Hoan
Không thể thích ứng được với lề thói săm soi của Ngự sử đài, một cơ quan rất nhạy cảm của nhà Đường, nên nhiều quan chức chính trực phải chịu đi đày xuống miền Nam. Lăng Dư Khánh bị đổi xuống làm Thứ Sử Giao Châu vì đã tỏ ra sốt sắng thái quá với công việc Ngự Sử. Lại một quan Ngự Sử đáng tôn kính khác là Lý Sao bị đày xuống làm thư ký giữ sổ sách ở Long Biên, Giao Châu, sau khi dám tranh luận với vua. Rồi lại có Hàn Tư Ngạn, một quan Ngự Sử rất có uy tín dám cả gan cảnh cáo Cao Hoàng Đế về thế lực ngày mỗi mạnh của Võ Tắc Thiên Hoàng Hậu. Kết quả là ông phải từ quan bỏ về dưới áp lực của Lý Nghĩa Phủ. Năm 675, một thời gian lâu sau khi Nghĩa Phủ chết, Cao Hoàng Đế nhớ đến Hàn Tư Ngạn và gọi ông về triều với ý định phong chức cho ông nhưng vì đã xa công việc triều chính đã lâu, nên ông quên hết cả nghi lễ và tập tục ở trong triều. Khi đến trước mặt Hoàng Đế, ông quên cả những thủ tục phải thi hành trong một dịp như thế, và kết quả là ông bị đày xuống làm một Lịnh Quan ở châu Diên, Giao Châu, rồi chết ở đó.
Nhiều người bị đày xuống miền Nam là những danh sĩ rất có ảnh hưởng trong việc phát triển văn hoá ở vùng biên giới. Tiêu biểu là Vương Phúc Thời, xuất thân từ một gia đình danh sĩ ở Sơn Tây. Dưới thời Cao Hoàng Đế nhà Đường, ông bị đày xuống làm Lịnh Quan ở Giao Chỉ sau khi một người con trai của ông bị cách chức. Người con khác của ông là Vương Bột, rất nổi tiếng về thi pháp nhưng khi đi thuyền xuống Giao Chỉ thăm ông thì, không may, thuyền bị đắm và chết đuối. Sử chép Vương Phúc Thời cho xây nhiều trường học và được các gia đình quý tộc địa phương rất quý trọng.
Năm 705, sau khi Võ Tắc Thiên bị buộc phải thoái vị, có hai quan chức học giả bị tạm thời đày xuống An Nam Đô Hộ Phủ. Đỗ Thẩm Ngôn bị đày xuống châu Phong và Thẩm Toàn Kỳ xuống châu Hoan. Hai ông này đều để lại những bài thơ cảm thán trong thời gian bị đi đày ở miền Nam. Dưới đây là một trong những bài thơ của Toàn Kỳ:
Ta được nghe nói nhiều về Giao Chỉ
Rằng những tục lệ miền Nam đi sâu vào lòng người
Mùa đông thì ngắn
Còn ba mùa còn lại thì mặt trời luôn toả sáng
Ở đó quan Úy Tô từng có cả một vương quốc
Và Sĩ Nhiếp vẫn lảng vảng từ thế giới bên kia
Nhà cửa trong làng truyền từ đời này sang đời nọ
Cá và muối đã có từ thuở xa xưa
Từ thời thượng cổ, người Việt triều cống chim bạch trĩ
Tướng quân Hán trầm tư vì con chim bồ cắt
Chòm sao Đại Hùng treo lơ lửng trên non Chung
Ngọn gió Nam thổi trên biển Trang
Từ khi ta rời quê nhà, năm tháng qua lại qua
Mái tóc bạc báo tin nay ta đã già
Các huynh đệ ta ai cũng chào thua định mệnh
Vợ con ta cũng đã ra người thiên cổ
Kìa con đường hiu quạnh, kìa bức tường đổ nát
và những giọt lệ rơi
Trái tim ta chẳng còn âm vang ý muốn của Trời nữa
Câu nói “người Việt triều cống chim bạch trĩ ” là nhắc lại theo huyền sử Trung Quốc, khi Trang Vương của nhà Châu (1115-1078 TCN) nhận được chim trĩ do người từ bộ tộc Việt Thường đem triều cống vào năm 1110 TCN. Đây là lời ghi lại xưa cũ nhất về sự tiếp xúc giữa Trung Quốc thời cổ và người Việt nên sự kiện này đã trở thành cái mốc đánh dấu thuở sơ khai của lịch sử Việt Nam. Trong trí óc của người Trung Quốc thì thời kỳ cổ đại này cho thấy sự qui phục của người Việt khi phải đem đồ triều cống Trung Quốc. Đối với các học giả Việt Nam về sau này thì thời kỳ đó là bằng chứng đất nước họ đã tồn tại từ đời thượng cổ. Lẽ tất nhiên, như Chương I đã nói, người Việt Thường năm 1110 TCN không có gì dính dáng đến người Việt Nam cổ đại cả.
Câu thơ “Tướng quân Hán trầm tư vì con chim bồ cắt” là nhắc đến lời của Mã Viện khi đem quân Hán chinh phạt miền Nam vào năm 42-43. Khi phải tạm dừng quân trong đồng bằng sông Hồng vào mùa gió Nồm và nhìn thấy một con chim bồ cắt rơi xuống sông và chết vì cố bay trong cơn mưa, Mã Viện ngẫm nghĩ đến lẽ sống ở đời và tự hỏi lý do gì khiến ông phải lăn lộn lo toan mọi việc như thế. Tứ thơ nhắc đến con chim bồ cắt là có ý gợi lên phút trầm tư mặc tưởng của tác giả vì đang phải sống xa nhà trong một môi trường xa lạ với nhiều hiểm hoạ khó lường. Chung Sơn là ngọn núi cao ở phía Nam tỉnh Hồ Nam. Cảnh chòm sao Đại Hùng trên bầu trời phía Bắc toả chiếu trên một ngọn núi ở miền Nam xa xôi đã vượt ra ngoài cái tư duy và tâm thức thông thường về thế giới của một người Trung Quốc có học thức vào thời Đường. Biển Trang là vịnh Bắc Bộ bây giờ. Trong bài thơ này, tác giả pha trộn lời tán thưởng cái di sản đặc biệt của phương Nam với tâm trạng u hoài về bi kịch của cuộc đời. Cảm tưởng bị lạc lõng, mất phương hướng, không muốn tin vào hiện trạng, cộng với sự hoang mang là nỗi niềm chung của những kẻ bị lưu đầy. Tuy nhiên, không phải là tất cả các quan đời Đường đều bị ép buộc hay phải miễn cưỡng xuống Nam, và cũng không phải là tất cả đều coi nơi họ lưu trú là niềm bất hạnh mà họ phải cam chịu để chuộc tội. Ngược lại, nhiều người lại thấy thích thú khi sống ở miền Nam nên quyết định ở lại đây vĩnh viễn. Sau này chúng ta sẽ thấy một Tiết Độ Sứ vào thế kỷ 9 đã quyết định ở lại miền Nam và gây dựng nên một gia đình mà những thế kỷ sau này đã đạt được nhiều danh tiếng trong chính quyền Việt Nam.
http://damau.org/archives/5400
Keith Weller Taylor
Professor 380 Rockefeller Hall |