việt nam khai quốc
lời mở đầu (the birth of vietnam: author’s foreword)
♦ Chuyển ngữ: đinh từ bích thúy nhuận sắc
LTS: Học giả Keith Taylor hiện là giáo sư Khoa Khảo Cứu Á Châu (Asian Studies) ở đại học Cornell, New York. Ông thông thạo tiếng Việt và là cựu chiến binh đã sang đánh trận ở Việt Nam vào đầu thập niên 1970. Quyển The Birth of Việt Nam (Việt Nam Khai Quốc) được thành hình từ luận án tiến sĩ của ông (hoàn tất năm 1976 tại đại học Michigan), dựa trên những khảo cứu của rất nhiều tài liệu Trung Hoa, Nhật Bản, và Việt Nam, cùng những bằng chứng từ những địa thế được khai quật vào giữa thế kỷ 20. Ông sắp ra mắt quyển A Concise History of Vietnam (Lịch Sử Việt Nam Tóm Lược (Cambridge University Press). Gần đây, ông đã xuất bản tuyển tập biên khảo/nhận định Monde du Viet Nam (với Frédéric Mantienne) để tỏ lòng thành đối với Giáo sư Nguyễn Thế Anh (Paris: Les Indes Savantes, 2008).
Bác Nguyễn Lê Vỹ, thân hữu của Da Màu, đã mua bản quyền tiếng Việt của quyển Việt Nam Khai Quốc từ vị dịch giả hiện không muốn để tên trên bản dịch. Sau khi được sự chấp thuận của học giả Keith Taylor trong việc phổ biến bản dịch trên mạng, bác Nguyễn Lê Vỹ đã trao tặng Da Màu toàn bộ bản quyền tiếng Việt. Da Màu xin trân trọng cảm ơn bác Nguyễn Lê Vỹ.
Những chương trong quyển Việt Nam Khai Quốc sẽ được biên tập và lần lượt đăng tải trong mục học thuật của Da Màu.
Lời Mở Đầu
Tập sách này khảo cứu về Việt Nam từ thời kỳ lịch sử được bắt đầu được ghi chép vào thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên cho đến thế kỷ thứ 10 sau Công Nguyên, khi nền thống trị của Trung Quốc chấm dứt và một vương quốc Việt Nam độc lập ra đời. Trong suốt 12 thế kỷ đó, người Việt Nam đã tiến hoá từ một xã hội chưa có chữ nghĩa và nằm trong một nền "Văn Minh Nam Hải" của Trung Hoa cho đến khi trở thành một thành viên độc đáo của thế giới văn hoá Đông Á Châu. Quá trình lâu dài này chính là thời kỳ khai sinh của nước Việt Nam lịch sử.
Những sử gia Trung Quốc và những nhà Hán học người Pháp vẫn coi thời kỳ lịch sử này của Việt Nam là một phân ngành trong lịch sử Trung Quốc. Họ vẫn coi Việt Nam không là gì ngoài một vùng đất ương ngạnh ở biên thùy Trung Quốc, và được may mắn thừa hưởng ân huệ "văn minh hoá" của đế quốc này. Nhưng các nhà sử học VN lại coi thời đại ấy như là thời đại mà tổ tiên của họ đã tranh đấu dưới sự thống trị của ngoại bang, một thời đại mà bản sắc quốc gia của họ được thử thách và nung rèn. Để có một cái nhìn quân bình hơn, điều cốt yếu là chúng ta phải nghiên cứu tất cả những gì về Việt Nam mà các sử gia Trung Quốc đã ghi lại cùng với những truyền thống lịch sử mà người Việt Nam đã ghi nhớ và duy trì được từ những thời đại đó.
Đôi khi người ta lập luận rằng như có một "cốt cách Việt Nam bản địa” đã tồn tại mà không bị thương tổn bởi ngọn lửa đô hộ của Trung Quốc. Ở một khía cạnh nào đó, điều này đúng, bởi vì chính ngôn ngữ Việt Nam đã tồn tại, cũng như những huyền thoại của Việt Nam từ thời kỳ "tiền Trung Quốc", đã tồn tại. Nhưng cả ngôn ngữ lẫn những truyền thống huyền thoại của Việt Nam cũng đã biến thể qua những giao tiếp với Trung Quốc.
Người Việt ở thế kỷ thứ 10 khác hẳn với tổ tiên của họ từ 12 thế kỷ trước. Họ đã hiểu Trung Quốc như một người nô lệ hiểu chủ nhân của mình, và họ biết tất cả những cái hay và cái dở của Trung Quốc. Họ có thể lấy làm thú vị khi sáng tác một bài thơ Đường, nhưng họ cũng có thể chống cự rất mãnh liệt đội quân xâm lăng Trung Quốc. Họ trở thành những chuyên gia thấm nhuần phương tiện sống còn dưới bóng đế quốc cường bạo nhất thế gian thời ấy.
Nền độc lập của Việt Nam không bỗng chốc có được ở thế kỷ thứ 10 chỉ vì sự suy yếu của Trung Quốc. Trung Quốc không bao giờ chịu từ bỏ cái quyền mà họ coi đương nhiên là có thể cai trị Việt Nam, và họ đã nhiều lần cố chinh đoạt lại xứ sở này. Nhưng vào thế kỷ thứ 10, người Việt đã phát huy được một tinh thần và trí tuệ có khả năng chống lại quyền lực của Trung Quốc. Tinh thần ấy và trí tuệ ấy đã được nung đúc qua bao nhiêu thế kỷ dưới ách thống trị của Trung Quốc; nó bắt rễ từ một niềm tin bất khuất rằng họ không phải–và cũng không muốn–là người Trung Hoa.
Có người lại cho rằng nền độc lập của Việt Nam là do kết tinh từ ảnh hưởng Trung Quốc, và sự kích động bởi những quan niệm về chính quyền và xã hội Trung Quốc đã khuyến khích người Việt Nam đạt được khái niệm quốc gia cho đến ngày hôm nay. Nhưng tổ tiên của người Việt đã có vua chúa và những hình thức văn hoá của chính họ trước khi quân đội Trung Quốc kéo đến, và chắc chắn nền tảng chính trị này vẫn có thể tồn tại cho dù người Việt chẳng bao giờ có cơ hội biết đến Trung Quốc.
Kinh nghiệm từ sự thống trị của Trung Quốc đã ảnh hưởng đến Việt Nam trên hai phương diện. Thứ nhất: nó đã đào tạo đuợc một lớp người Việt cầm quyền có khả năng tiếp thu khái niệm lãnh đạo của văn hoá Trung Quốc. Qua việc hội nhập được nhiều từ ngữ Hoa vào trong ngôn ngữ của mình, và rút kinh nghiệm qua bao nhiêu thế kỷ với tư cách là một hành tỉnh của Trung Quốc, người Việt đã lãnh hội được một kiến thức chính trị và triết lý tương tự như Trung Quốc. Những xu hướng chính trị ở Trung Quốc, dù là Lão giáo, Phật giáo, Khổng giáo hay Mác xít, đều được người Việt Nam thấu hiểu kỹ càng.
Mặt khác, sự thống trị của Trung Quốc lại gieo mầm cho trực giác chống kháng Trung Quốc, và từ đó, tất cả mọi can thiệp chính trị từ bên ngoài. Từ một ngàn năm qua, người Việt Nam không dưới bảy lần đánh tan những mưu toan của Trung Quốc muốn áp đặt ảnh hưởng của họ lên Việt Nam bằng vũ lực. Không có chủ đề nào trong lịch sử Việt Nam lại kiên định hơn là chủ đề chống ngoại xâm.
Trải qua nhiều thế kỷ, quan niệm của người Việt Nam về vương quyền dần dà được vây bủa bằng lớp lý thuyết và những quy cách của Trung Quốc, nhưng ở nguồn gốc nó vẫn duy trì cái tính chất đặc biệt của người nông dân Việt bướng bỉnh và thông minh đã nắm vững được nghệ thuật sống còn. Người sáng lập nền quân chủ của nước Việt Nam độc lập ở thế kỷ thứ 10 không phải là người được uốn nắn bởi truyền thống đế quốc Trung Hoa, mà chỉ là một nông dân quê kệch, từng trải chiến trận để đạt được hai thành tích là thống nhất được người dân Việt và giữ vững được nền quốc phòng. Hai đức tính thiết yếu ấy đã soi đường cho mọi nền lãnh đạo chính trị của Việt Nam cho tới tận ngày nay.
Tập sách này kết thúc bằng vụ ám sát người đã sáng lập một tân vương quốc Việt Nam ở thế kỷ thứ 10. Trung Quốc đã lợi dụng biến cố này để mưu toan áp đặt lại quyền bá chủ cũ của mình ở Việt Nam. Một cuộc khủng khoảng như vậy vẫn đòi hỏi một nền lãnh đạo vững mạnh để kháng cự ngoại xâm, và từ đó trở thành một đề tài thường trực trong lịch sử Việt Nam: các vị vua chúa Việt Nam vẫn đuợc trông mong là phải có khả năng tập hợp quần chúng để tham gia vào nỗ lực kháng chiến. Trong thế kỷ thứ 19, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã lệ thuộc quá nhiều vào quan niệm cầm quyền kiểu Trung Quốc đến nỗi đã tự tách mình ra khỏi khối thần dân của họ nên đã thất bại không chống nổi cuộc xâm lược của người Pháp. Nước Việt Nam hiện đại đã hình thành từ sự thất bại này.
Quá trình khai quốc của Việt Nam phát xuất từ sự thích ứng lâu dài với quyền lực Trung Quốc ở sát bên cạnh. Có lẽ đúng hơn nếu ta nói đến "những lần khai quốc của Việt Nam," bởi vì trong lịch sử lâu dài của họ, người Việt đã hơn một lần trải nghiệm sự biến chuyển trong cái ý thức liên hệ đến khái niệm "khai quốc.” Một học giả danh tiếng của Việt Nam gần đây đã đưa ra một xu hướng mới về lịch sử Việt Nam và cho rằng đất nước này đã được "khai quốc" 3 lần: một lần trong thời tiền sử mà đỉnh cao là nền văn hoá Đông Sơn hiện hữu trước khi có ảnh hưởng Trung Quốc; rồi ở thế kỷ thứ 10 khi nền thống trị của Trung Quốc chấm dứt; và lần thứ ba mới đây, ở thế kỷ 20 hiện đại. Tập sách này đặt trọng tâm vào thời kỳ khai quốc của Việt Nam ở thế kỷ 10, mặc dù câu chuyện thật ra bắt đầu vào thời kỳ văn hoá Đông Sơn.
Cuộc khai sinh này có thể được phân ra làm 6 giai đoạn, mỗi giai đoạn đều góp phần ấn định ra những ranh giới mà từ đó người Việt Nam dần dần trưởng thành. Những ranh giới ấy được minh xác rõ rệt qua mức độ và tính chất của quyền lực Trung Quốc được ngấm vào Việt Nam.
Trong giai đoạn thứ nhất, có thể gọi là thời kỳ Đông Sơn hay Lạc Việt, quyền lực của Trung Quốc chưa vươn tới Việt Nam. Người Việt thuở ấy là những thành tố quan trọng của nền văn minh Kim khí tiền sử ở các miền bờ biển và hải đảo ở Đông Nam Á Châu. Lằn ranh giới văn hoá và chính trị giữa người Việt và người Trung Quốc đều được phân định rõ.
Trong giai đoạn thứ hai, có thể gọi là thời kỳ Hán-Việt, binh lực Trung Quốc kéo đến và một giai cấp thống trị có giòng giống hỗn hợp Hán Việt được ra đời. Nền triết học Trung Quốc xuất hiện, Phật Giáo Việt Nam khởi nguyên; văn hoá Việt Nam đầu tiên kinh qua khuôn khổ Trung Quốc đồng thời tiếp nhận ảnh hưởng Phật Giáo do các vị thiền sư đến trực tiếp từ Ấn Độ bằng đường biển. Lằn ranh giới giữa văn hoá và chính trị trong giai đoạn này được vạch ra trong xã hội Việt Nam.
Giai đoạn thứ ba có thể được gọi là thời kỳ Giao chỉ-Việt, bởi đó là thời kỳ mà Giao Chỉ được lập thành một tỉnh vững vàng trên đất Việt, và một tư duy mới về những ranh giới văn hoá và chính trị được thực hiện bởi những người trung thành với các triều đại ở phương Bắc. Nước Lâm Ấp, tức vương quốc Chàm ở vùng duyên hải phía Nam thôi không còn là một yếu tố thuộc nội bộ chính trị Việt, mà trái lại, lại trở thành một kẻ thù bên ngoài. Những cuộc xung đột với Lâm Ấp là một sự kiện đặc thù trong thời kỳ này. Giai doạn này bắt đầu vào cuối thế kỷ thứ 3, sau khi có một sự can thiệp bằng vũ lực của nhà Tần, khi Đào Hoàng, một thái thú Trung Quốc rất được lòng dân đã đẩy lui được biên thùy Lâm Ấp và tổ chức lại chính quyền hàng tỉnh. Ranh giới văn hoá và chính trị bấy giờ được thiết lập giữa Việt Nam với các xứ láng giềng phía Nam.
Trong giai đoạn bốn, trải dài hầu hết thế kỷ thứ 6, Trung Quốc thỉnh thoảng phải rút lui khỏi Việt Nam và các anh hùng hào kiệt địa phương mưu toan thực hiện một tư duy mới về ranh giới. Họ muốn tách biệt Việt Nam không những ra khỏi các xứ láng giềng phía Nam, mà còn với cả Trung Quốc nữa. Đây là thời kỳ mà người Việt tự nhận thức được mình vì đã có dịp thử nghiệm các hình thức khác nhau về cách thể hiện bản sắc quốc gia, từ những cố gắng bắt chước các cơ chế triều cương của Trung Quốc tới việc muốn quay trở lại với những huyền thoại truyền thống của mình trong thời chưa đụng chạm với Trung Quốc, và cuối cùng là sự thể hiện của Phật Giáo trong quyền lực quốc gia, như điềm báo trước cho nền độc lập của Việt Nam vào thế kỷ thứ 10 và 11.
Giai đoạn 5 là giai đoạn Đường-Việt. Giai đoạn này chứng kiến một nước Việt Nam yên vững trong tay đế quốc phương Bắc. Áp lực để bắt Việt Nam tuân theo những khuôn khổ hành xử của Trung Quốc tương đối mạnh, nhưng người Việt đã đáp ứng lại bằng những hành động để kháng, đồng thời mời gọi những lân bang không lệ thuộc vào Trung Quốc giúp đỡ mình. Nhưng tất cả mọi cuộc chống cự và mưu toan liên minh với các tộc dân láng giềng đã bị lực lượng quân sự Trung Quốc đập tan.
Cuộc thử thách nghiêm trọng nhất đối với nền thống trị Trung Quốc thời nhà Đường xảy ra vào giữa thế kỷ thứ 9 khi những người Việt liên kết với nước Nam Chiếu ở vùng sơn cước Vân Nam. Nhưng rồi họ lại khám phá được rằng họ có thể chịu đựng được những lỗi lầm cai trị của nhà Đường hơn thói vô kỷ luật của những nước láng giềng "man rợ." Thời kỳ Đường-Việt này đã thấy những lằn ranh văn hoá và chính trị của Việt Nam được vạch rõ, không những đã phân tách được Việt Nam ra khỏi các láng giềng ở vùng đất cao nguyên và duyên hải, mà cũng phân biệt người Việt ra khỏi nhóm dân Mường sinh sống ở những khu vực lân cận nhưng ở ngoài vòng kiểm soát trực tiếp của các quan chức nhà Đường và do đó duy trì được một hình thức văn hóa Việt Nam không mấy ảnh hưởng bởi Trung Quốc.
Giai đoạn chót nằm trong thế kỷ thứ 10, khi những lãnh đạo Việt Nam vạch được một lằn ranh chính trị phân cách họ với Trung Quốc. Việc ấn định và thực thi lằn ranh ấy đã đóng một vai trò rất lớn trong lịch sử Việt Nam sau này.
Mỗi giai đoạn trên đã biến hóa khái niệm bản sắc của người Việt Nam qua những tương giao với những láng giềng của họ. Những biến hóa của các giai đoạn 2, 3, và 5, khi những triều đại hùng mạnh của Trung Quốc biểu lộ quyền lực của họ ở Việt Nam đã đẩy người Việt đến gần với Trung Quốc hơn và cắt đứt liên hệ của họ với những láng giềng phi Hoa. Mãi đến thế kỷ 6 và 10, khi người Việt có khả năng giữ vai trò chủ động, lằn ranh văn hoá và chính trị mới phản ảnh rõ một quyền lực quốc gia hữu hiệu. Ngay vào thời điểm đó đã không còn một Việt Nam đi dật lùi để quay lại với khuynh hướng chính trị của những thời kỳ trước.
Đến thế kỷ 10, người Việt hiểu rằng vận mệnh quốc gia của họ luôn chuyện dây dưa không thể tránh với Trung Quốc. Họ không thể nào lờ đi chuyện Trung Quốc là một đe dọa tiềm tàng và liên tục đối với sự tự do phát triển đời sống quốc gia của họ. Lúc nào họ cũng phải ghé một mắt để trông chừng Trung Quốc. Họ không có thì giờ để nuôi nấng nguyện ước từ thuở sơ khai là được có một vận mệnh giống như những láng giềng Đông Nam Á của họ.
Như thế không có nghĩa là người Việt Nam không phải là "những người Đông Nam Á," nếu thực sự có một khái niệm về “con người Đông Nam Á.” Trước hết và trên hết, họ là người Việt Nam. Họ đã xác định vị trí của họ ra khỏi Trung Quốc cùng với những láng giềng Đông Nam Á. Những láng giềng phi Trung Quốc của Việt Nam không am hiểu được cái giá mà Việt Nam đã phải trả cho sự sống còn của mình, và chiều sâu của sự quyết chí mà Việt Nam đã chống lại những áp lực lịch sử của Trung Quốc. Người Việt Nam đã chấp nhận khuynh hướng mà lịch sử đã áp đặt lên họ. Họ thấy mình đứng bơ vơ giữa một tên khổng lồ luôn luôn đe dọa và một nhóm tiểu quốc chỉ biết lo cho nhu cầu của chúng. Thật vậy, người Việt Nam hãnh diện về đặc tính Đông Nam Á của họ, không vì nó, mà chính là để tái tạo và củng cố bản sắc trong quá trình gìn giữ biên thùy phía Bắc.
Từ một cái nhìn rộng lớn hơn nữa, Việt Nam nằm trên ranh giới giữa Đông Á và Đông Nam Á Châu. Câu hỏi là Việt Nam "thuộc" về Đông Nam Á hay Đông Á có lẽ là một trong những điều không soi sáng được gì cả trong quá trình khảo cứu về Việt Nam. Mặc dù tất cả mọi thứ, từ ngôn ngữ cho đến những tập tục ẩm thực của Việt Nam đều phản ảnh một sự pha trộn rõ rệt của cả hai thế giới văn hoá, nhưng nền văn chương, học thuật và hành chánh của Việt Nam rõ ràng cho thấy là họ thuộc thành phần của nền văn minh cổ điển Đông Á. Điều này biểu lộ sự thành công của các triều đại Trung Quốc trong việc duy trì một ranh giới văn hoá chính trị giữa Việt Nam và những láng giềng Đông Nam Á của họ qua nhiều thế kỷ.
Việc khai quốc của Việt Nam được mô tả trong quyển sách này như một sự khai quốc của một ý thức mới trong thế giới văn hoá Đông Á nhưng lại bắt nguồn ở ngoài thế giới ấy. Trong bối cảnh của Đông Á Châu nói chung, đây là một ý thức về biên thùy, nhưng đối với người Việt Nam chỉ là điều ngẫu nhiên. Họ đã học được cách thể hiện đặc tính phi Trung Quốc của họ qua di sản văn hoá của Trung Quốc. Cho dù bị gò bó và áp chế bởi quyền lực Trung Quốc qua bao thế kỷ lịch sử, sự tồn tại của bản sắc Việt Nam cũng quan trọng như hình thức văn hoá mà bản sắc này được biểu lộ.
việt nam khai quốc: các lạc hầu (chương 1, phần 1)
NHỮNG TRUYỀN THỐNG THUỞ SƠ KHAI
Những truyền thống thuở sơ khai của Việt Nam, như đã được kể lại trong cuốn "Lĩnh Nam Chích Quái," một cuốn sách sưu tầm những truyền thuyết được viết vào thế kỷ 15, đều có nói đến các vua Hùng cai trị nước Văn Lang. Các vua Hùng được cho là thuộc giòng dõi Lạc Long Quân–một anh hùng từ quê hương của mình ở biển khơi đến đồng bằng sông Hồng–nơi ngày nay là Bắc Việt Nam–và khuất phục được tất cả những yêu quái ở vùng đất đó rồi truyền bá văn minh cho dân chúng bằng cách dạy họ cách trồng lúa và may quần áo để mặc. Xong Lạc Long Quân quay trở về biển sau khi đã dặn dò dân chúng rằng hãy kêu ông lên nếu gặp điều gì khó khăn tuyệt vọng. Sau khi ông đi khỏi, lại có một vị vua từ miền Bắc, tức là Trung Quốc ngày nay, đến nơi, và thấy ở đó không có ai cai trị, bèn chiếm lấy.
Khi dân chúng kêu gọi Lạc Long Quân đến giải thoát cho họ khỏi tay kẻ thống trị xa lạ kia, Lạc Long Quân lại từ ngoài biển xuất hiện. Ông bắt được vợ kẻ thống trị là Âu Cơ và đem bà lên núi Tản Viên, một ngọn núi cao nhìn xuống sông Hồng, nơi sông này chảy vào vùng đồng bằng. Không giải cứu được vợ nên vị vua kia bỏ đi. Bà Âu Cơ về sau sinh được người con là vị vua đầu tiên trong số các vị vua Hùng; Lạc Long Quân lại trở về biển sau khi hứa rằng ông sẽ quay trở lại nếu cần. Lạc Long Quân là thần của biển khơi và Âu Cơ là công chúa của miền núi, đều được người Việt Nam coi như là tổ tiên của giòng giống họ.
Những câu chuyện huyền thoại quanh sự tích Lạc Long Quân và nguồn gốc của những vua Hùng biểu lộ sự kết hợp giữa nền văn hoá hướng biển và môi trường lục địa. Nền văn minh đã đến với một anh hùng từ biển đánh bại được một kẻ có quyền lực ở đất liền và bắt được vợ của y, rồi lại khiến bà trở thành mẹ của các con mình. Tiền đề về một vị anh hùng của văn hoá địa phương có khả năng vô hiệu hoá một đe dọa từ phương Bắc bằng cách chiếm đoạt “chính thể” của thế lực này là dấu hiệu báo trước mọi quan hệ lịch sử giữa người Việt Nam và người Trung Quốc. Nguồn gốc huyền thoại của các vua Hùng đã phản ảnh rõ chuyện văn hoá miền biển sẽ hoà hợp với những ảnh hưởng chính trị từ lục địa. Điều này về sau đã được giới trí thức văn học của Việt Nam thêu dệt thành giòng dõi Lạc Long Quân và Âu Cơ với một ngành là thủy hệ của miền Nam và một ngành là lục địa của miền Bắc, kết tinh thành một hoàng tộc mà người sáng lập giòng họ là một nhân vật được coi là xuất hiện trước thời điểm của hoàng đế đầu tiên trong huyền thoại Trung Quốc.
Theo một cuộc nghiên cứu mới đây của Việt Nam, tên Hùng có nguồn gốc từ một tước hiệu của cấp tù trưởng ở Nam Á vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay trong ngôn ngữ của những dân tộc nói tiếng Mon-Khmer sinh sống ở miền rừng núi Đông Nam Á Châu cũng như trong ngôn ngữ của người Mường sống ở miền cao nguyên Việt Nam. Tước hiệu này cũng được thấy trong ngôn ngữ của dân tộc Munda ở Đông Bắc Ấn Độ, dân tộc này nói một ngôn ngữ cận “hướng Tây nhất” trong số những ngôn ngữ còn tồn tại ở miền Nam Á. Một nhà ngôn ngữ học Việt Nam hiện đại đã liên kết hai từ Văn Lang, danh hiệu truyền thuyết của nước vua Hùng, với những từ có cách phát âm tương tự của ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở khắp vùng đất được bao quanh bởi sông Dương Tử và sông Mê Kông; nó có nghĩa là dân tộc, và hiểu rộng ra là "quốc gia." Theo khẩu truyền, vật tổ (totem) của các vua Hùng là một loài chim thần thoại rất lớn mà tên của nó được cho là đã trở thành nguồn gốc của tên mà người Trung Quốc đặt cho vùng đất thuộc nơi các vua Hùng cai trị–đó là Mê Linh.
Mê Linh ở vào góc Tây Bắc của vùng đồng bằng, nơi sông Hồng chảy ra khỏi những dãy núi cao, hợp lưu với 2 nhánh lớn: sông Đà và sông Chảy. Nơi hợp lưu của 3 con sông này ở vào cao độ ước khoảng 30-35 bộ (mỗi bộ là 30cm) trên mặt biển, và ước chừng 100 dặm cách bờ biển. Mê Linh có núi Tản Viên nằm về phía Tây Nam và núi Tam Đảo ở phía Đông Bắc. Ba con sông gặp nhau ở dưới chân ngọn núi Hùng, nơi mà ngày nay vẫn còn đền thờ vua Hùng.
Dữ kiện sớm nhất được ghi lại như lịch sử trong tài liệu Việt Nam xuất hiện trong Việt Sử Lược, có niên đại phù hợp với triều đại của một vị vua Trung Quốc–vua Trang của nhà Chu– trị vì ở thời điểm 696-682 Trước Công Nguyên. Mười tám thế hệ lần lượt diễn tiến từ khởi thủy triều đại của vị vua Trang của nhà Chu cho đến cuối triều đại ấy. Những sử gia Việt Nam dường như cũng đã theo đó mà tính ra 18 đời vua Hùng, cũng chấm dứt đồng thời với nhà Chu. Việc các sử gia Việt đánh dấu niên đại vua Hùng đầu tiên với thời vua Trang của nhà Chu được coi là một cách dựa vào truyền thuyết Trung Hoa để tái tạo huyền thoại lập quốc của Việt Nam. Theo Việt Sử Lược, lịch sử Việt Nam bắt đầu khi có một "dị nhân" ở Mê Linh dùng pháp thuật để liên kết tất cả những bộ lạc dưới quyền mình, rồi dị nhân xưng hiệu là Hùng Vương và đặt tên nước là Văn Lang. Nguồn gốc của huyền tích này còn mơ hồ, và sự xác thực của nó chưa được khảo cứu tường tận. Tuy nhiên, niên đại được gán cho lúc xưng vương của các vua Hùng lại phù hợp với chứng tích khảo cổ học cho thấy rằng vào khoảng thế kỷ 7 trước Công Nguyên (TCN), những nền văn hoá khác nhau ở Bắc Việt được thống nhất lại dưới ảnh hưởng của văn hoá Đông Sơn bắt nguồn từ vùng Mê Linh. Điều đó đánh dấu thời kỳ bắt đầu của nền văn hóa được gọi tổng quan là nền văn hóa Đông Sơn.
Tiến trình khảo cổ đào dựng lại văn hóa Đông Sơn bắt đầu từ gần cuối thiên niên kỷ thứ 3 TCN, với sự xuất hiện của văn hoá hậu kỳ đá mới (neolithio) và đầu thời kỳ kim khí trong các thung lũng sông Hồng và sông Mã. Hai trung tâm văn hoá này tiếp tục phát triển song song tuy vẫn riêng rẽ cho tới khi được kết hợp lại thành văn hoá Đông Sơn vào khoảng thế kỷ 7 TCN. Văn hoá Đông Sơn được biết đến qua những trống đồng được tìm thấy ở nhiều nơi khắp Đông Nam Á và ở phía nam Trung Quốc. Những hình vẽ trang trí trên trống phản ảnh một văn hoá hướng về biển.
Các học giả Việt Nam liên kết triều các vua Hùng vào thời kỳ văn hóa Đông Sơn. Họ cho đây là thời kỳ hình thành ý thức quốc gia và như vậy họ có thể coi thời kỳ Trung Quốc thống trị sau đó là một sự xâm nhập tạm thời vào đời sống một quốc gia đã được thành lập hẳn hoi. Quan điểm này giải thích việc Việt Nam dành lại được độc lập vào thế kỷ 10 sau CN như sự tái xuất hiện của một truyền thống đã có sẵn từ trước. Nó phủ nhận quan điểm cũ của các học giả Trung Quốc và Pháp cho rằng di sản của Việt Nam bắt nguồn khi còn là một tỉnh lỵ của Trung Quốc. Quan điểm này ngày càng khó đứng vững được với sự tiến triển của các công cuộc khảo cổ, ngôn ngữ và lịch sử gần đây.
Từ trung tâm điểm ở Mê Linh, các vua Hùng phát huy ảnh hưởng của mình về hướng Đông để bao gồm vùng Tây Vu. Danh hiệu Tây Vu xuất hiện vào các thế kỷ sau và có nguồn gốc từ sự tiếp xúc với các dân tộc theo Trung Quốc xa hơn về phía Bắc. Tây Vu nằm ở giữa sông Cầu và sông Hồng, tại chân núi Tam Đảo. Đó là một vùng đất phì nhiêu, có nhiều sông, hồ, đồi và đồng bằng, giáp ranh một bên là vùng đất núi, một bên là đất đồng bằng có đầm lầy. Vùng này đông dân cư từ thuở ban đầu xa lắc. Vùng đất cao ở bắc Tây Vu có sông ngòi chảy qua và có những thung lũng ăn thông sang cả miền Nam Trung Quốc, qua những ngọn đèo thấp. Do đó, Tây Vu dễ bị tấn công từ phía Bắc và những huyền tích từ thuở ban sơ ở Tây Vu đều toàn nói đến chuyện bảo vệ lãnh thổ để chống lại những kẻ xâm lăng từ phương Bắc.
Huyền tích hiển nhiên nhất là chuyện Đức Thánh Gióng, một đứa bé lên ba tuổi, lớn lên một cách kỳ diệu thành một ông khổng lồ sau khi ăn một lượng cơm vĩ đại; rồi sau khi quét lũ xâm lăng ra khỏi vùng, đã biến về trời. Ông được coi như hiện thân của Lạc Long Quân trở về để cứu viện thần dân của mình, và cũng giống các anh hùng “khỏe vì cơm” trong truyền thuyết của Nam Dương và các xứ sở vùng Đông Nam Á.
Một trong những nhân vật có uy lực nhất trong huyền thoại Việt Nam là Thần núi Tản Viên hay gọi giản dị là Sơn Tinh. Sơn Tinh là con trai Lạc Long Quân và Âu Cơ, đã theo cha xuống biển, nhưng sau lại quay trở về ở trên núi Tản Viên, đuợc coi như đỉnh Olympia của Việt Nam. Một huyền tích về Sơn Tinh lại giống y hệt với sự tích dân gian của miền Bắc đảo Borneo. Huyền tích Việt Nam kể về sự xung đột giữa Sơn Tinh và một thần Cây ở trên núi. Một cây cổ thụ được phục hồi sống lại một cách kỳ lạ sau mấy lần bị Sơn Tinh chặt xuống. Sau ba lần như thế, Sơn Tinh bèn nấp ở một nơi và thấy chính Thái Bạch Tinh Quân đã làm sống lại cây ấy vào trước lúc bình minh. Sơn Tinh bèn rình bắt được Thái Bạch. Và hai bên đã đạt được một thoả thuận là đôi bên được quyền xử dụng đất và những cây trên đất ấy. (Xem Gustave Dumoutier, trong quyển Nghiên Cứu Lịch Sử và Khảo Cổ thành Cổ Loa, Kinh Đô cũ của Âu Lạc (Étude historique et archeologique sur Co-loa, capital de l’ancien royaume de Au Lac), trang 261-262). Còn theo huyền tích của đảo Borneo, có một cái cây cũng được làm sống lại như thế sau khi bị chặt xuống, và vị thần làm sống lại cây ấy đã bị bắt; rồi để đổi lại việc sử dụng các cây và đất đai, thần ấy đã yêu cầu mình được thờ cúng. (Xem Henry Ling Roth, Người Dân Bản Xứ của vùng Surawak và Bắc Borneo (The Natives of Surawak and British North Borneo, trang 177-178).
Huyền tích lý thú nhất của Sơn Tinh là trận đánh nhau với Thủy Tinh mà về sau được diễn giải qua nhiều hình thức: như tượng trưng của mùa lũ, sự dâng cao đột nhiên của thủy triều, hay quân xâm lăng từ biển cả. Trong khi có thể đưa ra từng trường hợp hợp lý cho những lời giải thích trên, những giải thích lại không nói đến tất cả những yếu tố của sự tích như đã được nói đến trong Việt Điện U Linh Tập, là sách mà chúng tôi truy cứu nguồn gốc. Thủy Tinh không phải là một kẻ xâm lăng ngoại lai, mà lại chính là bạn thân của Sơn Tinh và cả hai bên đều cùng sống ẩn tích tại Mê Linh.
Lý do của sự hai bên thù ghét nhau chính là cuộc hôn nhân với nàng Công Chúa con vua Hùng. Hùng Vương và các cố vấn của ông đều cho rằng cả hai thần đều rất xứng đáng là phò mã và đã mời hai thần dự một cuộc thi mà kẻ thắng sẽ đuọc lấy công chúa. Sơn Tinh đã thắng và rước công chúa về núi Tản Viên. Thủy Tinh không chịu nhận là mình thua và ầm ầm tấn công Sơn Tinh như vũ bão, nhưng không thắng. Huyền tích này ngụ ý giải thích cái thế ưu việt của Sơn Tinh ở vùng đất thấp quanh núi, do kết quả việc Sơn Tinh thắng cuộc, lấy được công chúa. Huyền tích còn được hậu thuẫn thêm bằng những truyền thuyết dân gian mà theo đó tầm quan trọng chính trị của núi Tản thời cổ thành một đề tài được lập lại nhiều lần.
Sự tích Đầm Nhất Dạ phát xuất từ phía Nam đồng bằng sông Hồng, một vùng đầm lầy thấp ở gần biển, kể rằng có một nàng công chúa con vua Hùng là Tiên Dung, khi đang đi chơi trên các nhánh song trong vùng đồng bằng sông Hồng bỗng gặp một thanh niên nghèo không quần áo che thân, là Chử Đồng Tử. Nàng bèn kết duyên với Chử Đồng Tử và hai ông bà ở lại sinh sống trong vùng gần bờ biển, trong một tòa lâu đài được trang biện đầy những đồ sang trọng hiếm có của những thương nhân đi biển dâng tặng. Được tin ấy, vua Hùng sai một đạo quân đến bắt hai người, nhưng khi đi đến nơi, chỉ trong một đêm lâu đài biến mất. Chẳng còn gì ở nơi đầm lầy Nhất Dạ ấy nữa. Huyền tích này cũng chứa đựng những chi tiết giống như huyền thoại về sự khai sinh ra xứ Phù Nam ở vùng hạ lưu sông Mê-kông.
Những sự tích Lạc Long Quân, Đức Thánh Gióng, Thần Tản Viên và Đầm Nhất Dạ đều có ghi trong cuốn sử của Ngô Sĩ Liên ở thế kỷ 15. Tất cả những sự tích này đều được pha biến với những tình tiết công phu góp nhặt từ các nguồn văn hoá của những thế kỷ về sau. Chúng được mọi người Việt Nam nhớ mãi vì chúng tượng trưng cho bản sắc dân tộc ban sơ của họ.
Những huyền tích này cũng biểu lộ sự thực tâm lý cơ bản của xã hội Việt Nam thời cổ: quyền tối cao của xứ sở đến từ biển khơi. Lạc Long Quân là vị thần biển. Chúng ta đã thấy có một số chi tiết trong những huyền tích Việt Nam cũng giống như những huyền tích của những xứ sở ở ven biển Đông Nam Á. Khái niệm về một vị thần biển như biểu tượng của quyền lực chính trị và sự chính thống, đi cùng với sự hình thành của dân tộc Việt Nam thời tiền sử, chính là dấu hiệu sớm nhất đã cho ta thấy rằng người Việt Nam là một dân tộc tự giác và đặc thù. Chính khái niệm này đã được biểu hiện qua nghệ thuật trống đồng Đông Sơn với những con chim biển và những động vật khác vây quanh những chiếc thuyền chở các chiến sĩ.
XÃ HỘI LẠC
Các nhà khảo cổ Việt Nam ghi thời kỳ khai sinh nền văn minh của họ là thời kỳ văn hoá Phùng Nguyên ở cuối thiên niên kỷ thứ 3 truớc CN. Văn hoá ấy nẩy nở ở trong vùng về sau được gọi là Mê Linh. Họ coi Phùng Nguyên là thời kỳ Văn hoá Đá mới tiến sang Sơ kỳ Kim khí. Địa điểm Phùng Nguyên rộng hàng chục ngàn mét vuông và có hàng ngàn dân cư ngụ. Đây chính là chứng cứ của sinh họat cộng đồng được xây dựng từ những kết hợp của những giòng họ và bộ lạc.
Khi việc sử dụng đồ đồng phát triển trong suốt hai thiên niên kỷ liền nhau, lối sống cộng đồng sơ khai này đã chuyển hoá thành một xã hội có hệ thống hơn căn cứ trên những nhóm gia đình hay làng xã tương đối nhỏ. Xu hướng này đạt tới đỉnh cao là văn hoá Đông Sơn mà các nhà khảo cổ Việt Nam ghi là từ thế kỷ 7 TCN đến thế kỷ 1 SCN. Những nấm mộ của các giai cấp cầm quyền thời kỳ Đông Sơn đều có nhiều đồ đồng được chôn cất theo. Những đồ vật ấy chứng tỏ nhóm người lãnh đạo đã thiết lập một khoảng cách rõ rệt giữa họ với dân chúng mà họ cai trị. Những học giả Việt Nam nhận định rằng thời này là thời có huyền thoại của vua Hùng và nước Văn Lang.
Trong quá trình nghiên cứu những từ ngữ trong truyền thuyết thời các vua Hùng, một nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã nhận thấy rằng những từ như "phụ đạo," "mị nương," hay "quan lang" đều giống một số từ trong ngôn ngữ Nam Á và Nam Đảo ở Đông Nam Á. Ông lập luận rằng những từ đó đã du nhập vào tiếng Trung Quốc từ những ngôn ngữ về phía Nam. Một từ có nghĩa là "hầu gái" hay "nô lệ” lại cùng nghĩa với tiếng Thái; một từ có nghĩa là "nhân dân" hay "thần dân" lại giống với tiếng Thái và tiếng Chàm; lại một từ nữa có nghĩa là "phụ tá" (bồ chính) lại giống tiếng Java; một ngôn ngữ Nam Đảo thấy ở trong vùng núi ở Trung phần Việt Nam. Nguồn gốc chính xác của những từ trên chưa được biết rõ. Nhưng những nơi có tiếng đó cho thấy Việt Nam cổ đại là nơi giao lưu của những văn hoá ngôn ngữ khác nhau.
Một từ cổ VN, nghĩa là "làng" (kẻ) dường như có gốc ở đồng bằng sông Hồng, và chu vi địa lý dung dưỡng sự tồn tại của từ này qua tên các làng xã đương đại cho thấy nó có nguồn gốc từ xã hội trồng lúa vào thời kỳ đá mới và thời kỳ kim khí.
Chữ "sông" cũng tương quan với nhiều ngôn ngữ láng giềng và phát xuất từ chữ "giang" của Trung Quốc, và từ này gần đây được chứng minh là có nguồn gốc ở Nam Á. Đồng thời, cũng như đã được ghi từ trước, là chúng ta có lý do để tin rằng từ "Hùng" bắt nguồn từ một chức vị "tù trưởng", thủ lãnh, ở miền Nam Á. Các học giả ngày nay có chiều hướng coi Nam Á và Nam Đảo là những chi nhánh của đất liền cùng cửa biển của một vùng Nam Á cổ hơn. Ảnh hưởng của từ ngữ Nam Đảo đã rời lục địa để đến các đảo ở Đông Nam Á trong khi những từ ngữ Nam Á lại tới đất liền từ Đông Nam Á. Nhóm ngôn ngữ Mon-Khmer là một nhóm lớn nằm trong nhóm Nam Á. Tiếng Việt, theo một nhà tra cứu gần đây, rõ ràng là ngôn ngữ Mon-Khmer có những chữ được vay mượn rõ ràng từ ngôn ngữ Nam Đảo.
Sự đối chọi giữa biển và núi trong huyền thoại Việt Nam như vậy có một căn bản ngôn ngữ. Ở miền Bắc Việt Nam trong thời tiền sử, chúng ta có thể cho rằng tiếng Mon Khmer, hay giang sơn ngôn ngữ Nam Á đã được giàu mạnh nhờ giải đất giáp với dân tộc Nam Đảo vùng biển mà về sau cũng hội nhập họ. Tiếng Việt cũng phát triển theo đó, từ tiếng Mon-Khmer trong một thế giới văn hoá có tiếp súc sâu xa với các tộc dân ở Nam Đảo. Sự tiếp xúc với các tộc dân Thái và trong thời kỳ lịch sử, với tiếng Trung Quốc cũng để lại những dấu vết hiển nhiên và rõ rệt.
Nghệ thuật Đông Sơn đã cho thấy giai cấp cầm quyền được ảnh hưởng sâu đậm bởi văn hoá Nam Đảo. Chiếc rìu bằng đá hình chữ nhật thường vẫn được cho là có liên quan đến văn hoá Nam Đảo thời đồ đá, đã được tìm thấy rất nhiều ở Bắc Việt Nam trong khi loại rìu đá có vai mà vẫn được cho là đặc biệt của văn hoá Nam Á, lại tương đối hiếm.
Một vũ khí đặc biệt của thời kỳ Đông Sơn là chiếc rìu lưỡi chéo bằng đồng được cho là chiếc rìu biến hình từ cái chữ nhật bằng đá. Chiếc rìu chéo, hơn tất cả mọi loại khác vì nó có thể được dùng, vừa chặt, vừa đâm; cán nó lại có thể tháo ra dễ dàng, thành ra có thể dùng cầm đánh được gặp lúc cần.
Thứ vũ khí này được miêu tả ở trong tay các chiến sĩ chạm vẽ trên các trống đồng Đông Sơn. Nó làm chứng tích cho một vị thế chiến lược khó khăn của đồng bằng sông Hồng, nơi phải chịu một áp lực dân số thời cổ đại. Đồng bằng này cưỡi lên vùng đất trũng duy nhất giữa cao nguyên Tây Tạng và biển cả; vì lý do nó là con đường mòn của những tộc dân thường di chuyển, đi lại giữa miền Đông và miền Đông Nam Á. Những ai muốn lấy nơi này làm quê hương của mình thường phải đối đầu với những thử thách từ khắp nơi đổ đến. Cho nên vì sự sống còn họ phải tự trang bị bằng những vũ khí đủ sức để đương đầu. Những thứ vũ khí bằng kim khí khác được phát hiện ở Đông Sơn gồm có những lưỡi dao găm, kích, gươm và những ngọn lao, mác, những mũi tên và lẫy nỏ.
Ngày nay chúng ta có thể thấy loại rìu lưỡi chéo được vẽ theo một tư duy nghệ thuật bởi những dân tộc Nam Đảo. Theo lịch sử Việt Nam thời cổ, rìu này được sử dụng nhân danh một dòng giõi vua chúa mang một danh xưng Nam Á. Văn minh Đông Sơn là một tổng hợp văn hoá được thành tựu bởi những nhóm dân cùng trong một môi trường địa-chính trị duy nhất. Những nhóm dân này đến tự miền núi lẫn miền biển. Xã hội mà họ chung sống về sau đã san bằng hết mọi khác biệt giữa họ. Chúng ta có thể đoán được rằng dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ một sự phối hợp hài hòa của một số dân trong một khung cảnh địa lý đặc biệt, tức là trong vùng đồng bằng Bắc Việt Nam.
Nguồn gốc và ý nghĩa của các trống đồng Đông Sơn đã được nhiều học giả bàn cãi, nhưng vẫn chưa đi đến một sự đồng ý nào cả. Theo truyền thống, người ta vẫn cho rằng việc đúc đồng là từ Trung Quốc truyền vào Đông Nam Á, nhưng cuộc khảo cứu gần đây lại cho biết một điều ngược lại. Theo nhiều thư tịch cổ của Trung Quốc, trống đồng đã được những nhóm dân miền Nam sử dụng như là biểu tượng của thịnh vượng và quyền lực. Điều giải thích đáng tin nhất về nguồn gốc những trống đó là chúng đã tiến hoá từ khi còn là cái cối giã gạo, bởi vì "âm nhạc chơi bằng dụng cụ chày giã" đã được các tác giả Trung Quốc ngày xưa thuật lại như là phần quan trọng trong đời sống xã hội của các nhóm đến ở miền Nam. Đồng thời những nhà nhân chủng học Việt Nam ngày nay đã khám phá một sự tương đồng đặc biệt giữa hình dáng của những đồ dùng thường như bình, chén, lọ, thúng đều có hình cái trống để giã được thấy trong nghệ thuật Đông Sơn, với những cảnh giã gạo của người nông dân Việt Nam và những dân thiểu số ở vùng cao nguyên Việt Nam.
Theo những lời mô tả cũ nhất về xã hội và kinh tế của người Việt cổ mà nay còn thấy trong những đoạn văn trích từ những nguồn gốc Trung Quốc có từ thế kỷ 3 đến thế kỷ 5 sau CN, nền kinh tế ở đồng bằng sông Hồng trước khi có người Trung Quốc đến cai trị gồm những ruộng lúa được dẫn thủy bằng cách lợi dụng mực nuớc cao ở những con sông khi có triều cường. Những ruộng ấy được gọi là những Lạc điền. Chúng ta đã thấy rằng Lạc cũng là tên của vị anh hùng văn hoá mà người Việt cổ bảo là đã dạy họ nghề nông. Các học giả Nhật Bản gợI ý rằng Lạc là ở từ Việt "lạch" hay "rạch," có nghiã là "đê," "kinh rạch," "thủy đạo." Việc đào muơng dẫn nước nhất định là bước đầu tiên làm cho những vùng đầm lầy ở miền Bắc Việt Nam thành cầy cấy được. Những mương rạch có cửa chắn nước chắc phải là thiết yếu để điều chỉnh việc dẫn nước. Những Lạc điền, như nói trong thư tịch, chắc chắn là phải nhờ vào một thứ hệ thống điều chỉnh nào đó. Nhưng chúng ta cũng nên nhớ rằng những thư tịch Trung Quốc kể lại việc dẫn thủy theo triều cường bằng cách giải thích chữ Lạc, và rằng xã hội Lạc rất có thể đã căn cứ trên các phương pháp canh nông khác nhau, mà phương pháp dẫn thủy bằng triều cường là một.
(Bản đồ 2: ảnh hưởng thủy triều ở đồng bằng sông Hồng trong thời hiện đại. (Theo P. Gourou, Những Người Dân Quê ở Đồng Bằng Việt Nam, tr. 78).
Lạc là một danh hiệu xưa nhất đuợc ghi lại về dân tộc Việt Nam. Chúng ta có thể nói một cách thích đáng rằng xã hội vào thời kỳ văn hoá Đông Sơn là xã hội Lạc, bởi vì yếu tố duy nhất để liên hệ những huyền thoại về các vua Hùng và thời kỳ lịch sử sơ khai vào với thời kỳ nhà Đông Hán, chính là địa vị ưu thế của các Lạc hầu trong tư cách là những người cai trị ở địa phương.
Việc dẫn thủy theo triều cường được mô tả trong những văn bản nói về Lạc điền đã vạch rõ một kỹ năng canh nông tương đối tiến bộ. Bức Bản đồ số 2 cho thấy ảnh hưởng của nước triều ở đồng bằng sông Hồng trong những năm 1930. Hơn 2000 năm trước, chúng ta có thể cho rằng triều cường còn đi sâu vào nội địa hơn thế nữa bởi vì lớp phù sa đã bồi đắp vùng đồng bằng cho lan xa ra biển đến 10 dặm trong suốt thời kỳ lịch sử. Ảnh hưởng nước triều mạnh nhất là ở vùng Tây Vu, nằm ở ngoài luồng nước chảy của sông Hồng. Một cuộc nghiên cứu gần đây về địa dư cổ của vùng này cho biết chính đó là cơ sở của xã hội Lạc điền. Những hạt lúa giống thời sơ khai được thấy ở Á Châu với cái tên là Oryza Fatua đã được đào thấy ở nơi có các nền văn hoá đá mới ở khắp trong nước Việt Nam hiện đại. Khảo cổ học cho biết là người Việt cổ cầy đất bằng cuốc làm bằng đá mài nhẵn, sớm là vào thời kỳ Gò Mun ở hậu bán thiên niên kỷ thứ 2 trước CN, bằng những lưỡi liềm và những nông cụ gặt hái có lưởi bằng đồng, và vào thời kỳ Đông Sơn, những cuốc, cày và hái bằng đồng cả. Tài năng của những nông dân đủ để hậu thuẫn cho lớp người cầm quyền được ấn định rõ ràng.
Văn bản xưa nhất của Trung Quốc từ thế kỷ thứ 5 sau CN còn sót lại đến nay nói về các vua Hùng đã giải thích danh hiệu Hùng theo nghĩa của từ Trung Quốc là "mạnh," "cang cường" và văn bản đã triển khai ý nghĩa này qua lời mô tả một khí hậu nhiệt đới kinh khủng và đất đai phì nhiêu. Chúng ta có thể ức đoán rằng lời giải thích của Trung Quốc được gợi ra bằng sự thâm nhập vào văn chương Trung Quốc những câu chuyện truyền khẩu từ Việt Nam về sự tích các vua Hùng.
Theo truyền thuyết, các vua Hùng cai trị trực tiếp từ Mê Linh. Bên ngoài Mê Linh các vua phải tùy thuộc, tới một mức nào đó, vào sự cộng tác của các Lạc hầu. Các vua Hùng bảo vệ các Lạc hầu chống lại những cuộc đột kích và xâm nhập đến từ miền núi, trong khi các Lạc hầu ủng hộ các vua bằng nhân lực và sự trù phú của mình.
Nhà sử học Pháp Henri Maspero, dựa vào cơ cấu xã hội của vùng cao nguyên Bắc Việt trong thời của ông, đã miêu tả xã hội xưa như là có hệ thống đẳng cấp căn cứ trên những đặc ân của gia đình, trên nghĩa vụ hỗ tương và sự trung thành của cá nhân. Dân sống trong các làng xã hay những cộng đồng gia tộc nhỏ dưới quyền cai trị của các Lạc hầu. Các Lạc hầu lại được hưởng những mức độ ân huệ và quyền hành khác nhau, từ những người giữ chức xã trưởng cho đến cấp lãnh đạo các vùng làm cố vấn thân cận cho vua Hùng. Vua duy trì uy tín của mình bằng một đời sống sung túc ở triều đình, làm dễ dàng việc quan hệ hoà bình với các nhóm dân tộc láng giềng ở miền núi. Những huyền tích và những ngôi mộ Đông Sơn đào được hầu như đều xác nhận hình ảnh này của xã hội Lạc.
Phụ nữ được hưởng một vị thế tương đối cao trong xã hội Lạc. Như chúng ta sẽ thấy sau đây là khi các Lạc hầu nổi lên chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc, chính họ lại được các phụ nữ lãnh đạo. Theo truyền thuyết, các con của Lạc Long Quân và Âu Cơ chia ra làm hai nhóm, một nửa theo cha xuống biển và một nửa theo mẹ lên núi. Việc chia đôi này dường như phản ảnh một hệ thống gia đình song phương mà từ đó quyền thừa kế được lưu truyền qua cả hai giòng nội, ngoại.
Xã hội Lạc tương đối tiến bộ và tự kiềm chế. Nó đã phát triển ở một nơi xa những trung tâm xã hội chính trị đang bành trướng ở Bắc Trung Quốc và Bắc Ấn Độ và ngang bằng với bất kỳ đe dọa nào mọc lên ở những vùng đất xung quanh. Nhưng tình trạng đó chấm dứt khi quyền lực Trung Quốc mở đường xuống Nam Hải.
MỞ ĐẦU MỘT KỶ NGUYÊN MỚI
Vào hậu bán thế kỷ thứ 3 trước CN, người Việt cổ bước vào một kỷ nguyên mới. Lần đầu tiên nhà vua đang trị vì của họ đã mất ngôi vì một kẻ xâm lăng là An Dương Vương, tức là một nhân vật lịch sử xác thực ở Việt Nam. Việc này liên quan đến những biến cố đang xảy ra ở miền Bắc Trung Quốc, trong thời gian nhà Tần loại trừ những địch thủ của mình và đi vào con đường đế quốc, phân tán đám vương hầu bị tước quyền nhưng đang có tham vọng lên ngôi. Để hiểu rõ tình trạng này, tốt hơn chúng ta hãy xét lại những việc đã xảy ra từ trước.
Như được biết rõ, trung tâm của văn minh Trung Quốc nằm trong thung lũng sông Hoàng Hà, nơi mà bây giờ gọi là miền Hoa Bắc. Lưu vực sông Dương Tử miền Hoa Trung có 3 quyền lực lớn xuất hiện trong số các dân tộc phi Hoa và những thủ lãnh của 3 nhóm ấy đang học áp dụng văn hoá Trung Quốc. Đó là nhà Thục nằm ở khu vực Tứ Xuyên, một thung lũng phì nhiêu bao bọc bởi núi cao và có sông Dương Tử bắt nguồn từ trong đó chảy ra. Nhà Chu đóng dọc theo sông Dương Tử và đây là vùng đất ao hồ, đồng bằng lẫn lộn. Rồi đến xứ Việt (Yueh) chiếm cứ miền duyên hải, nơi sông Dương Tử đổ vào đại dương. Đất Thục bị ngăn cách với miền Nam bởi vùng đất hiểm trở của Quế Châu, mặc dầu sông Dương Tử chảy qua cao nguyên Vân Nam và có những con đường từ đó toả ra khắp các ngả. Đất của nhà Chu rộng lớn hơn nhiều và quan trọng hơn đối với 2 vùng đất phi Hoa kia. Nó bị ngăn cách với vùng thung lũng sông Tích (Hsi) ở Hoa Nam bằng một dãy núi cao nhưng có 5 ngọn đèo danh tiếng để vượt qua. Đất của Việt, trên một vài phương diện, nằm dưới ảnh hưởng của nhà Chu. Nhưng vẫn được hưởng nhiều điều lợi từ những cuộc tiếp xúc với bên ngoài nhờ ở vị trí gần biển. Miền Nam của đất Việt này nằm trong vùng lòng chảo gần bờ biển Ung Châu ở phía Nam Chiết Giang và Bồ Kiên, và những vùng này lại bị ngăn cách với sông Dương Tử và sông Tích bởi nhiều núi cao.
Người ta được biết rất ít về miền Hoa Nam vào thời gian trước thế kỷ 3 TCN. Thung lũng sông Tích có những quan hệ thương mại quan trọng với nhà Chu ở phía Bắc và các dân tộc từ miền biển tới. Thương mại được thiết lập tốt giữa miền bờ biển Nam Hải và miền Hoa Bắc ngay từ đầu thiên niên kỷ 2 trước CN. Những quan hệ thương mại ấy ngày càng tăng thành một phần quan trọng của kinh tế Trung Quốc duới thời nhà Châu (Chou; 1122-255 TCN). Có những chứng cứ cho thấy là những dân tộc Mãlai-Pôlinêdi đem quế bằng đường biển từ Hoa Nam đến Đông Phi Châu rồi từ đó mở đường đi tới Địa Trung Hải vào trước thiên niên kỷ 2 TCN. Khi nhà Tần về sau kéo đến Hoa Nam, một trong 3 quận được lập ra ở đó mang tên Quế Lâm (rừng quế) bây giờ là Quảng Tây. Tình hình chính trị chắc chắn đã chuyển động quanh vùng của sông Tích mà ở đó, cả Quảng Châu, Hongkong lẫn Macao ngày nay tiếp tục phản ánh một môi sinh gồm 2 ảnh hưởng gồm lục địa và biển khơi. Năm trăm (500) dặm về phía Tây Nam, đồng bằng sông Hồng bị ngăn cách với thế giới Trung Hoa đang bành trướng bằng một khoảng đất rất xa. Vào cuối nửa thế kỷ 4 TCN, tình hình ấy bắt đầu thay đổi với sự hủy diệt của hai trong ba xứ ở lưu vực sông Dương Tử nói trên.
Năm 333 TCN, nhà Chu chinh phục đất Việt (Yueh); 18 năm sau nữa, nhà Tấn ở trên miền Bắc lại chinh phục được nhà Thục. Trong khi một phần những nhà lãnh đạo của nhà Thục chạy tỵ nạn sang với nhà Chu, lớp lãnh tụ Việt (Yueh) chạy tản mác về phía Nam dọc theo bờ biển và ở đó, họ thành lập nhiều tiểu quốc và lãnh địa được người Trung Quốc gọi là Bách Việt.
Bốn trong số những tiểu quốc này đã được lịch sử biết đến. Người Trung Quốc gọi xứ lớn nhất là Nam Việt (Nan Yueh), nằm ở quanh vùng sông Tích gần Quảng Châu bây giờ. Lớn thứ nhì là Mân Việt ở Bồ Kiên. Thứ ba là Đông Âu (Ou) hay còn gọi là Việt Đông, nằm ở Nam Chiết Giang thuộc Ung Châu bây giờ. Thứ tư là Tây Âu, ở thượng lưu sông Tích thuộc Quảng Tây ngày nay.
Thế là sau 333 năm trước CN, những dân sinh sống ở vùng Đông Nam Trung Quốc bị rơi vào vòng thống trị của một dân tộc mang tên và hưởng di sản của nước Việt (Yueh) cũ. Nam Việt ở vào trung tâm của trật tự mới này. Mân Việt đứng hàng quan trọng thứ nhì, và ở 2 bên sườn, có 2 xứ Đông Âu và Tây Âu. Hai xứ Âu này mang một ý nghĩa đặc biệt bởi vì ở vùng đồng bằng sông Hồng, nước Văn Lang đã bị thay thế bởi nước Âu Lạc, và danh hiệu Âu chỉ là một cách phát âm tiếng Việt Nam của từ "Ou" mà thôi.
Quan hệ giữa Đông Âu và Tây Âu không dược phát hiện trong sử liệu nhưng những danh hiệu ấy đã thiết lập một khuôn khổ tham khảo cho sử gia. Rõ ràng đó là thế giới của Bách Việt, với Nam Việt là trọng tâm; ít nhất đó là quan điểm của các sử gia Trung Quốc về sau. Tuy nhiên điều này cũng không giải thích được từ "Âu" trong phạm vi nước Việt (Yueh). Từ ấy dường như bắt nguồn ở miền Nam Chiết Giang, nơi Đông Âu dựng kinh đô ở trên bờ một con sông tên là Âu cho tới thời cận đại. Vùng này trước tiên là trung tâm của văn hoá Việt đã đóng góp cho tình trạng chính trị của Việt và đã có những giây liên hệ cũ và bền chặt với những truyền thống của chính nước đã bị khai tử hơn là với những xứ Mân Việt và Nam Việt rộng lớn hơn ở quá về phía Nam. Nhiều xứ nhỏ hơn đã mọc lên ngoài tầm kiểm soát của 2 xứ lớn này và rõ ràng có ý muốn liên kết với 2 xứ đó ngõ hầu tăng thêm được uy tín của mình. Danh hiệu Âu cũng có liên quan đến các tộc dân ở trên đảo Hải Nam và có thể còn nhiều điều khác nữa nhưng đã không được ghi lại.
Nếu danh xưng Âu bành trướng như thế trong số các nước nhỏ hơn và bị cô lập hơn của Bách Việt, ta có thể tin rằng Âu có nghĩa là một kiểu lãnh đạo chính trị đặc biệt đã tiến hoá dọc theo biên giới của xứ Việt (Yueh). Chúng ta đoán được rằng Âu mang ý nghĩa là "đất ngoại biên" và thủ lãnh của Tây Âu đã từng chống lại cuộc xâm lược của nhà Tần năm 219 TCN ở vùng mà nay là Quảng Tây chính là 1 thứ lãnh đạo kiểu du mục đã liên kết với Nam Yueh.
Ý nghĩ cho rằng nguồn gốc của người Việt Nam là ở trong số những người Việt (Yueh) di cư đến trong thế kỷ thứ 3 trước CN đã không được các nguồn tài liệu trên cho là đúng. Trong suốt thế kỷ 3 TCN, những dân tộc ở nơi mà ngày nay là Đông Nam Trung Quốc được biết đến như là những dân "Yueh"(Việt). Nhưng như thế không có nghĩa là những dân tộc địa phương bị xáo trộn bởi một cuộc di dân từ nước Việt cũ. Những chướng ngại địa-chính trị đã không làm công cuộc này xảy ra được. Có những dãy núi và những sông ngòi kinh khủng khó vượt qua; và đó cũng không phải là một con đường di dân tự nhiên như những thảo nguyên ở nội địa Châu Á. Những dân bản xứ ở vùng đất thấp không phải là những dân du mục được tổ chức thành những bộ lạc di cư có khả năng điều động được những ngưới mới tới trong các vùng đồng bằng. Hơn nữa, những dân đã định cư rồi tất phải bắt buộc những người tới sau hội nhập vào văn hóa của họ.
Từ những điều đã được biết về những cuộc di dân có thể so sánh được qua các thời đại lịch sử, chúng ta có thể cho rằng khi đất Việt (Yueh) bị nhà Tần chinh phục năm 333 TCN, phần lớn dân chúng đã ở lại nơi cũ mà chỉ có lớp cầm quyền cùng với những hậu cần và tùy tùng chạy trốn về phiá Nam, có thể thành từng băng nhóm tị nạn có võ trang thay vì thành 1 đạo quân đi chinh phục. Những băng nhóm nhỏ mang tính cách 1 băng cướp bóc như thế có thể đã áp đặt quyền hành và danh xưng của họ lên các dân tộc ở miền Nam vì họ đã quen chinh chiến và cai trị người khác nhờ kinh nghiệm khi còn ở Hoa Bắc. Việc xảy ra như thế đã dược thấy trong những tài liệu về thế kỷ 7 SCN ở vùng bán đảo Balkan.
Balkan là 1 vùng có núi non và thung lũng có thể so sánh được với miền Đông Nam Trung Quốc và khi mà những người Serbie-Ba Tư với những hoàng thân Croatie kéo đến với những quân sĩ tùy tùng của mình, đòi quyền cai trị dân Slavie, và viện dẫn đến uy tín của Bysantium để hợp thức quyền ấy.
Quan niệm về di dân ở thời cổ đã được xem xét lại trong mấy năm gần đây và ngày càng rõ là nhiều khi tuy gọi là di dân mà lại chỉ có 1 nhóm tương dối ít người cầm quyền, nhưng có hiểu biết về chính trị và quân sự. Bằng chứng ý nghĩa nhất là những cuộc khảo cứu về ngôn ngữ đã được tiến hành, cho biết rằng sự phân phối hiện nay của các ngôn ngữ hay ngữ hệ tại lục địa Đông Nam Á không phải là kết quả của những cuộc di dân rầm rộ mà là những dân tộc bản xứ đã bị các thủ đoạn chính trị chi phối và đã phản ứng lại yếu ớt những người di dân đến, tuy ít nhưng lại có ảnh hưởng và quyền hành. Một nhà nghiên cứu gần đây đã cho sự bành trướng của người Thái vào Đông Nam Á là kết quả của một "cuộc di dân vào Bắc Thái Lan của 1 triều đình nhỏ với một đoàn quân ít ỏi."
Điều này làm ta nhớ lại việc An Dương Vương đã cùng với đội quân của ông khoảng 30.000 người kéo đến đánh đổ triều đại của các vua Hùng hồi cuối thế kỷ 3 TCN. Chúng ta sẽ thấy đây là lợi thế mở đường cho ảnh hưởng của nguời Việt (Yueh) tràn vào đồng bằng sông Hồng. Nhưng không có bằng chứng nào nói rằng việc An Dương Vương lên ngôi đã để lại dấu tích trong ngôn ngữ Việt Nam, và rõ ràng là đã không có sự thay đổi lớn lao nào về dân số. Những nghiên cứu mới đây về nhân chủng học đã tiết lộ một sự liên tục đáng chú ý trong quá trình tiến hóa của giống dân ở Bắc Việt Nam từ thời tiền sử cho đến ngày nay. Một sự liên tục rõ rệt về giòng giống từ kỷ nguyên này sang kỷ nguyên khác như thế đã loại bỏ lập luận về bất cứ một cuộc di dân đại qui mô, đột xuất nào đã dùng từ trước để giải thích nguồn gốc của một dân tộc.
việt nam khai quốc: An Dương Vương (chương 1, phần 2)
(Hội trường Diên Hồng. Tượng phía trước là tượng An Dương Vương (Saigon trước 1975)
Năm 222 TCN, nhà Tần chinh phục nhà Chu và đến năm sau, Tần Thủy Hoàng, vị đệ nhất Hoàng Đế của Tần sai nửa triệu binh mã xâm nhập đất Việt (Yueh). Bút lục đầu tiên còn lại về chiến dịch này được ghi lại bởi một sử gia người Hán chưa đầy một thế kỷ sau khi biến cố xảy ra và đáng được trích lại như sau:
Tần Thủy Hoàng quan tâm đến những thứ như sừng tê giác, ngà voi, lông chim trả và ngọc trai của đất Việt nên đã sai Đồ Thư chỉ huy 500.000 quân chia ra làm 5 đạo…Trong 3 năm trời, cung tên gươm giáo lúc nào cũng sẵn sàng. Giám quan họ Lư chuyên về tiếp liệu được phái đi theo và vì không có cách nào bảo đảm được việc chuyên chở lương thực, nên ông đã bắt quân sĩ đào 1 con kinh để chở lúa gạo. Vì thế nên mới gây chiến tranh với dân Nam Việt (Yueh). Thủ lãnh Tây Âu là Địch Hồ Long bị giết và dân Việt bỏ vào sống trong các vùng rừng hoang dại với các súc vật của họ; không ai chịu làm nô lệ cho quân Tần. Họ lựa chọn những người dũng mãnh tôn lên làm thủ lãnh và tấn công quân Tần vào ban đêm, gây cho chúng thiệt hại nặng nề. Tướng Đồ Thư bị giết, còn chết và bị thương vô số kể. Sau vụ ấy, Tần Thủy Hoàng lại sai giải những tù phạm đến để bắt phòng vệ doanh trại, chống lại quân Việt.
Năm đạo quân tiến xuống miền Nam năm 221 TCN. Một đạo khuất phục được Đông Âu và Mân Việt; hai đạo tiến đánh Nam Việt(Nan Yueh). Hai đạo còn lại tiến vào Quảng Tây ngày nay, nơi mà Giám Quân Lư được sai đến để lo việc tiếp liệu. Con kinh ông đào là con kinh Hằng An (Hsing An), đào xuyên qua phiá cực Tây của 5 ngọn đèo mở đường xuống Nam. Kinh này nối hệ thống sông Dương Tử với hệ thống sông Tích.
Quân Tần tấn công Tây Âu sau khi hoàn thành con kinh vào năm 219 TCN, và thắng lợi đầu tiên là giết được Địch Hồ Long. Nhưng sau đó là bao nhiêu năm chinh chiến đưa đến cảnh bại trận sâu cay với cái chết của Đồ Thư. Những sự kiện này được người Trung Quốc nhớ lại như sau:
Người Việt bỏ trốn vào những vùng sâu xa trong rừng núi và quân Tần không thể nào đuổi đánh dược họ. Quân sĩ đóng trong các đồn trại để canh chừng những vùng đất bỏ trống. Cứ thế kéo dài không biết bao lâu, rồi quân sĩ bị hao mòn và kiệt lực. Lúc đó, người Việt lại kéo đến tấn công và gây tổn thất nặng nề cho quân Tần. Cuối cùng những tù phạm được gởi đến để cho đóng ở những dồn trại chống quân Việt.
Thế là Tần bị sa lầy trong vùng núi non rừng rậm Quảng Tây. Đến năm 214 TCN, các tội phạm được gởi đến nơi để đóng giữ các đồn trại và đi theo bọn này còn có cả "những tên lưu manh, lười biếng và nhóm thương gia đến định cư ở những vùng đất chiếm được." Thái Úy Triệu Đà được cử đến để tổ chức việc chiếm đóng quân sự . Ông đòi phải gửi đến cho ông 30.000 phụ nữ và goá phụ để lập gia đình cho quân sĩ.
Trong những năm kế tiếp, quân đội Tần và quân Yueh chiến đấu sống còn để dành miền Nam. Trên phương diện chính thức, Trung Quốc chia đất Yeuh (Việt) ra thành từng quận và sử liệu ghi rằng các hoàng thân trong số dân Bách Việt, đầu cúi xuống, giây thừng quấn quanh cổ, đến nộp mình xin qui hàng các viên chức Tần. Điều này có vẻ quá lạc quan bởi vì một sử gia Trung Quốc, gần một thế kỷ sau, khi viết lại việc này, xác nhận rằng quân Tần
vẫn giằng co với quân Việt. Quân Tần đóng ở những nơi chẳng có giá trị gì, vì đã tiến lên rồi, khó mà rút lui được. Trong hơn 10 năm, đàn ông thì lăm lăm gươm giáo, đàn bà lo việc tiếp tế. Dọc đường người ta thấy cả những người treo cổ lên những cành cây vì không chịu nổi đau đớn hành hạ phải tự vẫn. Thế rồi xảy việc Tần Thủy Hoàng chết, và đất nước lại lâm vào cảnh đại loạn.
Tần Thủy Hoàng chết năm 210 TCN. Những tham vọng của ông đã gieo lên đất Việt như một con thú hung dữ, gây ra đợt tàn phá tan hoang bối cảnh yên tịnh của người Việt thời thượng cổ.
Vua Hùng Vương cuối cùng bị mất ngôi về tay một người đã áp đặt quyền hành của ông lên các Lạc Hầu, lập ra nước Âu Lạc và lấy tên là An Dương Vương. Tổ tiên của An Dương Vương không đuợc rõ rệt; điều duy nhất mà sử liệu nói đến, ông là người họ Thục, phiên âm tiếng Việt của Shu, và chính tên ông là Phán.
Thục Phán là ai và từ đâu đến là 2 vấn đề quan trọng trong lịch sử Việt Nam từ buổi sơ khai. Họ Thục của ông khiến nghĩ rằng ông có liên hệ đến cấp cầm quyền của nước Thục ở Tứ Xuyên năm xưa, và đây là tư duy cổ của các sử gia Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng dù có thực là như thế, Tứ Xuyên đã bị nhà Tần lấy từ 1 thế kỷ trước rồi, và gia đình Thục Phán tất đã phải đi định cư ở 1 nơi khác trong thời gian ấy.
Một lập luận khác được truyền khẩu, nhưng cũng chỉ mới thôi, cho rằng họ Thục sống ở thung lũng Cao Bằng, nơi mà sông Tích ở Hoa Nam ăn thông với đồng bằng sông Hồng. Theo ý kiến này, mà sự chính xác còn nhiều nghi ngờ, vào cuối thời các vua Hùng, họ Thục đang cai trị 1 xứ là Nam Cương, tức "biên cương phiá Nam". Gồm đất Cao Bằng và những phần đất thuộc Quảng Tây ở quá phiá Bắc. Khi phụ thân ông mất, Thục Phán vẫn còn bé. Nhưng tính thông minh xuất chúng của ông khiến ông đã bảo tồn được ngai vàng của vua cha. Xứ "Nam Cương" mạnh lên, và nước Văn Lang thành yếu đi; thế là Thục Phán chiếm lấy Văn Lang, lập ra nước Âu Lạc.
Việc họ Thục lập nghiệp ở biên thùy Văn lang trải qua nhiều thế hệ được hậu thuẫn bởi 1 huyền tích về cuộc đánh nhau giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh, ghi trong 1 doạn trích dẫn hồi thế kỷ 14 từ một thư tịch của thế kỷ 9. Theo thư tịch này, một tiền bối của Thục Phán đã đến cầu hôn với một công chúa của vua Hùng. Mẵc dầu vua Hùng bằng lòng, nhưng các Lạc hầu lại không ưng và nói: "Họ chỉ muốn dòm ngó đất đai của ta thôi." Lại một nguồn thư tịch khác ở thế kỷ 14 thuật lại thời kỳ này để giải thích rằng về sau Thục Phán chiếm cứ Văn Lang để trả thù cho tiền bối của ông. Một bài thơ viết về Mê Linh của một quan chức Việt Nam ở thế kỷ 14 có câu viết: "Ôi hào quang rực rỡ của Văn Lang; Soi sáng cả non sông đất Thục." Ý muốn gợi nhớ đến họ Thục là láng giềng cũ của Văn Lang.
Việc họ Thục cai trị một xứ tên là "Nam Cương," có những chứng cứ như sau: Về mặt địa lý, đất Cao Bằng và những phụ cận gồm có miền biên thùy thiên nhiên ở phiá Nam bộ lạc Tây Âu. Với tư cách là một giòng họ, Thục có lẽ đã truy cập giòng dõi của mình lên tới thời nhà Thục ở Tứ Xuyên, nhưng thực tế chính trị của thời ấy và địa điểm chắc chắn đã buộc họ Thục phải có liên kết giữa họ với các thủ lãnh Âu Việt ở Quảng Tây.
Khi quân Tần tiến vào Quảng Tây và giết thủ lãnh Tây Âu, dân chúng bỏ trốn vào những vùng hoang dã, và lãnh thổ của họ Thục là một nơi ẩn trốn thiên nhiên rất tốt. Dưới sự chiếm đóng của quân Tần, họ Thục có thể đã lôi kéo được những thủ lãnh Tây Âu khác thất thế đang muốn lấy lại giang sơn của mình, và nhờ họ cùng thế lực ảnh hưởng của họ mà Thục trở nên cường thịnh và hiếu chiến đối với dân tộc láng giềng ở phiá Nam tức vùng đồng bằng sông Hồng. Cuộc chinh phục sau đó đã đưa đến 1 sự pha trộn ngưòi Âu kéo đến với dân Lạc thường trú mà thành nuớc Âu Lạc.
Sự hiểu biết của chúng ta về nước Âu Lạc là một sự lẫn lộn huyền tích với lịch sử. Vua An Dương là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam được minh xác bằng tài liệu xuyên qua những thư tịch đáng tin cậy, nhưng phần lớn những am hiểu của chúng ta về triều đại của ông lại đã tồn tại qua hình thức những huyền tích. Đất Mê Linh vẫn là một trung tâm quyền lực của Lạc. Các thủ lãnh Âu mới đến đã lập trị sở của họ ở Tây Vu, nơi đây họ xây thành mới gọi là Cổ Loa hay Cổ Loa Thành tức là "thành hình xoắn ốc." Danh hiệu này được gọi theo những bức tường thành được xây xoáy vào giữa như 1 con ốc. Những di chỉ khảo cổ ở Cổ Loa đã cho thấy một ảnh hưởng rất lớn của kiến trúc miền Bắc, nhưng những đồ gốm và những mũi tên bằng đồng lại là những phát triển của công nghiệp địa phương. Những sự kiện quanh viêc xây thành Cổ Loa đã được nhớ lại trong huyền tích con rủa vàng.
Huyền tích kể rằng việc xây thành bị bế tắc vì mỗi đoạn xây xong lúc ban ngày lại bị bí mật phá vỡ trong đêm bởi các thần linh đất Cổ Loa. Những thần này muốn trợ giúp cho vị hoàng tử của vua trước trả thù việc ông bị mất ngôi kế vị. Các thần này được chỉ huy bởi một con gà trắng tuổi đã ngàn năm đậu ở núi Tam Đảo gần đó. Một con rùa vàng xuất hiện, khuất phục đuợc con gà lông trắng và đã ở lại với vua An Dương cho tới khi thành xây xong. Khi từ biệt, thần rùa đã đưa cho vua một cái móng rùa của mình để chế tạo thành 1 cái lẫy cho chiếc nỏ của nhà vua và quả quyết rằng với lẫy nỏ đó, vua có thể tiêu diệt được bất cứ kẻ thù nào. Vua An Dương trao trách nhiệm cho 1 ngưòi là Cao Lỗ làm nỏ và đặt tên là "Chiếc Nỏ Thần Của Móng Rùa Vàng Thiên Liêng."
Câu chuyện nỏ thần dường như đã được truyền vào Trung Quốc bởi các dân tộc Đông Nam Á ở phía Nam trong thế kỷ thứ 3 và 4 TCN. Vũ khí này nhanh chóng được công binh Tần nghiên cứu làm theo; lẫy nỏ có thể chịu được 1 sức ép rất lớn và có thể bắn đi 1 mũi tên với sức mạnh lớn hơn bất cứ loại nỏ nào. Việt Nam đã đào được 2 cái lẫy nỏ bằng đồng như thế và hầu hết những bộ phận khác được làm bằng tre. Chiếc móng rùa dùng làm lẫy nỏ chứng tỏ tính cách quân sự của những cuộc chinh phục của An Dưong Vương và có lẽ nền cai trị của ông được căn cứ trên sức mạnh hay sự đe dọa dùng sức mạnh.
Việc xây thành Cổ Loa và huyền tích móng rùa gợi lại kiểu kiến trúc thành được nhà Tần xây dựng ở Tứ Xuyên sau khi phá được nhà Thục một thế kỷ trước đó. Những nỗ lực cai trị trong suốt thế kỷ thứ 3 cũng được cho là có liên quan đến quyền lực của các vị thuỷ thần.
Chủ đề chính trong huyền tích An Dương Vương là sự so tài đọ sức giữa thần Bạch Kê (gà trắng) và thần Kim Quy. Gà là một biểu tượng bản xứ rất cổ. Một bức tượng gà bằng đồng từ cuối thiên niên kỷ thứ Nhất TCN đã được khảo cổ đào thấy ở Mê Linh. Mặt khác, rùa chính là biểu tượng của thần Chiến Tranh của Trung Quốc (tức là thần Trấn Vũ). Những câu chuyện về vật tổ (totem) cũng nói lên sự thay đổi vận mệnh chính trị. Theo một huyền tích khác cũng vào thời kỳ đó, vua An Dương được miêu tả như hiện thân của thần Kim Kê và các Lạc Hầu cầm tinh Khỉ Trắng (Bạch hầu). Sau khi đã khuất phục được Bạch Kê nhờ sự trợ giúp của thần Kim Quy, vua An Dương được cho là đã thâu hút được linh khí của Gà vào mình biến màu trắng của nó ra thành màu rùa vàng; còn màu trắng nguyên vẫn là biểu tượng của uy quyền bản xứ, tuy là màu của các Lạc Hầu.
Huyền thoại rùa vàng được thuật lại từ cái nhìn của kẻ đi chinh phục, tức vua An Dương, cũng như việc xây thành Cổ Loa và chuyện đánh đuổi được những lực lượng có ý cản trở công cuộc xây thành. Chuyện Rùa Vàng có truyền thống từ những chiến dịch xâm lược ở phía Bắc để tượng trưng cho thế thượng phong quân sự. Thế nhưng huyền tích này đã được lưu truyền với hàm ý Rùa Vàng là hiện thân của Lạc Long Quân trú đóng ở địa thế trong đồng bằng sông Hồng. Điều này biểu lộ chuyện các Lạc Hầu đã hội nhập cấu trúc chính trị mới vào những huyền thoại lập quốc sẵn có.
Tương tự, danh hiệu Âu Cơ có lẽ cũng đã được lồng vào huyền thoại Lạc lúc đó để tượng trưng sự kết hợp chính trị của Âu và Lạc qua cuộc hôn nhân của Âu Cơ là người đến cùng với kẻ xâm lăng từ phương Bắc, lấy Lạc Long Quân, người anh hùng văn hoá của phương Nam. Âu Cơ nguyên thủy là mẹ sinh ra các vua Hùng, nhưng lại có thể có liên quan đến Ngu Cơ, con hươu thần trong huyền thoại của người Mường là những bà con miền núi của người Việt.
Huyền tích Lý Ông Trọng duy chỉ nói đến sự tiếp súc của vua An Dương với nhà Tần. Lý Ông Trọng là một người Việt Nam to lớn đã được vua An Dương đem triều cống Tần Thủy Hoàng; và sau khi làm nhiệm vụ xuất sắc đánh được quân Hung Nô, ông đã được cho về quê cũ rồi chết ở đó. Tuy nhiên, việc tế thờ Lý Ông Trọng chỉ được khởi xướng vào thế kỷ 9 bởi một quan Thứ Sử ở Giao Chỉ; nên huyền tích về ông có lẽ ít liên quan đến những biến cố thời vua An Dương.
Triều vua An Dương là một thời đại chuyển tiếp. Ông đến từ miền Bắc, xây được 1 toà thành lớn. Mặc dầu đã khuất phục được các Lạc Hầu, nhà vua đã không tước mất quyền hành của họ. Chính ra, nhà vua đã được hấp thụ bởi chính truyền thống của dân tộc mà ông đã chinh phục. Về sau, ông lại bị làm mồi cho những lực lượng mạnh hơn từ miền Bắc kéo đến.
việt nam khai quốc: triệu đà (chương 1, phần 3)
Trong khoảng thời gian ngắn ngủi nhà Tần cầm quyền, các vua của các xứ Đông Âu và Mân Việt bị hạ xuống làm chư hầu. Nhưng sau khi Tần Thủy Hoàng chết và triều đại của ông sụp đổ, các xứ ấy phục hồi được chút ít độc lập dưới triều Hán. Nhưng sự việc lại diễn tiến khác hẳn ở những địa thế xa hơn về phía Nam.Khi Tần Thủy Hoàng mất và đế quốc Tần sụp đổ, quân đội của ông đến chiếm đóng đất Việt ở lưu vực sông Tích bị lạc lõng giữa đất địch. Theo lời 1 tác giả cổ, “họ đã gặp nhiều sự không may quá sức chịu đựng” và những tướng chỉ huy của họ “nghi ngờ lẫn nhau.”
Những thư tịch còn sót lại nói rằng khi Thứ Sử Quảng Châu sắp mất, ông gọi người duy nhất được ông tin cậy là Triệu Đà đến bên giuờng. Ông căn dặn Triệu Đà đừng nên liên lụy vào những cuộc nổi loạn đang diễn ra ở Hoa Bắc, và khi nhấn mạnh đến sự xa xôi của Quảng Châu, ông nói :” Với số đông các dân Trung Quốc ở đây, chúng ta có phương tiện để đứng lên dành quyền tự chủ và sáng lập 1 vương quốc”. Sau khi ông chết, Triệu Đà lên nắm quyền. Ông đóng cửa những ngọn đèo mở cửa lên miền Bắc và loại bỏ những quan chức nào không trung thành với ông. Ông nắm trọn quyền kiểm soát vùng lưu vực sông Tích và tự xưng là vua Nam Việt (Nan Yueh).
Triệu Đà thành công không phải chỉ vì ông có tài tập hợp được những người Trung Quốc di cư đến phía Nam, mà cũng còn vì ông rất được số những người phi Hoa yêu mến. Năm 196 TCN, 1 sứ giả của triều đình Hán mới thành lập đem ấn tín đến thừa nhận Triệu Đà làm vua Nam Việt. Triệu Đà đón tiếp sứ giả theo phong tục dân địa phương, “tóc kết thành búi và ngồi xổm.” Sứ giả trách Triệu Đà là quên cả tổ-tiên thực sự của mình và dám tách rời ra khỏi đế quốc Trung Hoa. Triệu Đà xin lỗi và nói, sau nhiều năm sống ở Nam, ông không còn nhớ những tập quán phong tục của Bắc phương nữa.
Thật vậy, Triệu Đà thu phục được lòng trung thành của các dân tộc địa phương nhờ sự ông chống lại nhà Hán. Điều này được chứng minh năm 185 TCN khi Lã Hậu nhà Hán có ý gờm thế lực của ông nên đã cấm bán sắt, vàng, vũ khí, ngựa và gia súc cho Nam Việt. Triệu Đà đáp lại bằng cách đánh chiếm 2 tỉnh của nhà Hán mà bây giờ là Hồ Nam. Ông lại còn tự xưng là Hoàng Đế và kết thúc quyền bá chủ của nhà Hán được ngầm hiểu trước đây qua việc ông nhận ấn tín năm 196 TCN. Lã Hậu bèn sai 1 đạo quân đến đánh nhưng quân sĩ bị bệnh tả hoành hành, và sau khi Lã Hậu mất vào năm 180 TCN, những binh sĩ được sai đi đánh Nam Việt được gọi về.
Sử viết: “với sức mạnh quân sự, Triệu Đà gây nên bao sự sợ hãi ở miền biên giới và với những quà cáp phong phú, ông thâu phục được xứ Mân Việt và Âu Lạc làm chư hầu. Những chi tiết của cuộc chinh phục này không được ghi lại chính xác. Tuy nhiên, huyền tích đã nói đến cuộc đổi chủ của chiếc móng rùa làm lẫy nỏ, từ tay An Dương Vương sang tay Triệu Đà. Cũng theo huyền tích, lẫy nỏ vào tay ai làm chủ là người ấy có quyền và có thế lực để cai trị. Theo lời của Cao Lỗ, người đã sáng chế ra lẫy nỏ:” ai được nỏ là ngưòi ấy làm chủ đất nước; ai không giữ được nỏ phải bị diệt vong.”
Vì không thắng được trên chiến trường, nên Triệu Đà xin hoà và sai con là Trọng Thủy sang ở triều đình An Dương Vương làm con tin. Trọng Thủy dần dà chiếm được lòng tin cậy của An Dương Vưong và trái tim của con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Nhờ Mỵ Châu nên Trọng Thủy lân la được đến kho võ khí của nhà vua, rồi ăn cắp được chiếc lẫy khiến cho nỏ thần thành vô dụng. Trọng Thủy quay trở về với vua cha và Triệu Đà lại gây chiến; lần này ông thắng. An Dương Vương bỏ chạy đến gần bờ biển và được ruà thần nổi lên đón, đưa về Thủy cung.
Chủ đề của câu chuyện là quyền thống trị của Triệu Đà được chính thống hóa. Người Việt Nam cổ bước chân vào thế giới các vương quốc và đế quốc bắt đầu từ triều đại An Dương Vương. Trước đó, và cứ theo 1 tác giả cổ Trung Quốc, người Việt Nam sống ở “trong vòng hoang dại tối tăm.” Nhưng giờ đây, thời tiền sử lâu dài trong sự cô lập tương đối đã hết: Người Trung Quốc đã đến nơi cửa ngõ! uyền tích móng rùa làm thành lẫy nỏ thần, tượng trưng cho 1 khuynh hướng chính trị đi lên chính là phương tiện để tiến tới quan niệm 1 thế giới đổi thay khác.
Triệu Đà chia đất Âu Lạc vừa chinh phục được ra thành 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Giao Chỉ nằm trong đồng bằng sông Hồng và Cửu Chân ở đồng bằng sông Mã, nhỏ hơn và ở xa về phíaNam. Cái tên Giao Chỉ được lấy ở kinh Lễ, một sách giáo khoa cổ của Trung Quốc. Trong sách đó, từ này được dùng để miêu tả thói quen quê mùa của bọn “Nam Man.” Giao Chỉ có nghĩa là những bàn chân quấn lấy nhau: đó là phong tục của những người hay nằm ngủ với nhau thành nhóm, mỗi người nằm, đầu hướng ra ngoài, chân chụm vào với nhau ở giữa.
Tuy vậy, không phải là người Giao Chỉ có cái tục đó, bởi vì Giao Chỉ là từ nói về gia đình của người họ Chương (Cheng) trong kinh Lễ, và họ này làm vua ở Hồ Nam từ năm 774 đến 500 TCN. Vào thời đó và theo địa danh đó, “Nam Man” có lẽ là những tộc dân ở lưu vực sông Dương Tử hay xa hơn nữa là lưu vực sông Tích chứ không phải là 1 nơi xa tít về mãi phiá Nam như lưu vực sông Hồng. Tuy nhiên kinh Lễ là sách giáo khoa của Trung Quốc, và ngôn từ của sách rất có uy tín, được áp dụng không phân biệt bởi hậu thế trong những điều kiện đương thời của họ.
Còn nguồn gốc của danh hiệu Cửu Chân thì không được biết rõ, vì không có sách cổ nào nói cả. Dịch nghĩa đen, là 9 chân lý, và có lẽ do 1 từ triết lý nào đó. Xét như vậy, 2 danh hiệu trên được đặt ra từ di sản của văn minh Trung Quốc. Nhưng vốn là 2 cái tên cố định địa-chính trị Việt Nam trong nhiều thế kỷ về sau nên chúng đã gợi thêm nhiều ý nghĩa mới được địa phương hóa và gợi ra những cách sử dụng mới hơn. Chẳng hạn như vào thế kỷ 16, Giao Chỉ đã được dịch nghiã là “Cochin” trong ngữ hệ Bồ Đào Nha và do đó, nảy sinh ra cái tên “Cochinchina” (chỉ miền Nam Việt khi người Pháp đánh chiếm đất này).
Triệu Đà sai hai sứ giả đến làm Thái Thú 2 quận mới này ở Việt Nam; còn các Lạc Hầu vẫn được giữ nguyên địa vị, chức tước; và triều đình vẫn đóng ở Cổ Loa. Các Lạc hầu vẫn có quyền như trước; nhưng bây giờ thành chư hầu của Triệu Đà Nam Việt. Các Thái Thú lo việc phát triển các trung tâm thương mại lúc đó là trọng tâm của Triệu Đà.
Lần đầu tiên trong lịch sử, dân tộc Việt Nam trở thành phần tử của một vương quốc bao gồm khắp cả miền Hoa Nam. Vương quốc này mang dấu ấn của người sáng lập ra nó, tức Triệu Đà. Thư tịch ghi rằng Triệu Đà trị vì trên 70 năm và chết năm 136 TCN, thọ 121 tuổi. Ông được người cháu 70 tuổi lên nối ngôi, là Triệu Hổ.
Triệu Đà được các sử gia Việt nam sau này viết là một ông vua đã bảo vệ đất đai Việt chống lại Trung Quốc xâm lược. Ông vẫn được thờ phụng ở nhiều nơi tại Bắc Việt. Giang sơn Nam Việt của ông là nguồn cảm hứng cho nhiều thế kỷ về sau. Ký ức Nam Việt đã khuyến khích các anh hùng nổi loạn địa phương xưng vương là vua Nam Việt. Đồng thời, các học giả Trung quốc xuống thăm miền Nam thường làm một hai bài thơ tưởng nhớ Triệu Đà, vị thủ lãnh Trung Quốc đầu tiên ở phương Nam xa xôi này. Hình ảnh của vị vương vĩ đại của đời xưa rất được lòng dân ấy đã sống mãi ở vùng Quảng Châu cho đến tận đời nhà Đường.
Đình Phù Sa, huyện Yên Mô, Ninh Bình (nơi thờ đình hoàng Triệu Đà)
Triệu Đà có chân dung ở cả hai thế giới: miền Bắc là đế quốc đang bành trướng và miền Nam, là một vùng đang thu hẹp. Người Trung Quốc nhớ đến ông như một quan chức của Hoàng Triều nhưng lại có thái độ độc lập; và người Việt Nam nhớ đến ông như một vị vua vĩ đại dám chống lại nhà Hán. Ông là vị thủ lãnh cuối cùng có chỗ đứng trong huyền thoại Việt Nam thời cổ. Việc ông sở hữu chiếc móng rùa thần tượng trưng cho việc ông được nhận là chính thống trong lòng người dân Việt và cũng chính thức hóa việc ông kế ngôi vua An Dương. Nhưng sau khi ông chết, Nam Việt ngày càng rơi vào ảnh huởng nhà Hán.
Nguời Hán Đến Việt Nam
Ảnh hưởng của nhà Hán bành trướng xuống miền Nam, và những người còn sót lại của lớp thống trị Nam Việt cũ cảm thấy ngày càng lâm nguy. Khi Triệu Đà chết, nước Mân Việt ở Bồ Kiên vùng vẫy chống lại sự đe dọa bị tiêu diệt bằng những hành động hiếu chiến ngày càng mạnh. Vì sợ người Mân Việt, nên dân tộc Đông Âu, ít hung hăng hơn ở phiá Nam Chiết Giang, phải bỏ đi di cư, trong khoảng những năm từ 138 đến 135 TCN, đến vùng an toàn hơn nằm trong lãnh thổ của Hán. Năm 135 TCN, Mân Việt tấn công Nam Việt với hy vọng đánh thức được xứ này ra khỏi cái chính sách thụ động, thân Hán của họ. Nhưng Nam Việt lại không dám theo, mà thay vào đó, lại tâu lên với Hán triều xin làm 1 chư hầu trung thành. Việc Triệu Hổ, tức Triệu Vũ Đế của Nam Việt lệ thuộc nhà Hán trong khi có cuộc khủng khoảng Mân Việt là 1 điều đặc biệt trong vấn đề Nam Việt quan hệ với Hán.
Năm 124 TCN, Triệu Hổ chết và con là Triệu Anh Tề lên ngôi. Nhưng vì còn nhỏ tuổi nên Anh Tề được gởi sang phục vụ tại triều Hán; nhờ đó sau đã lấy được 1 thiếu nữ làm nghề hèn hạ tên là Cù thị làm vợ. Đến khi Anh Tề lên ngôi vua, Cù thị thành Hoàng Hậu; và đến khi ông chết vào năm 113 TCN, Cù thị thành Mẫu hậu Nhiếp chính, cầm quyền nhân danh con trai là Triệu Hưng tức Triệu Ai Vương.
Sau khi Triệu Anh Tề chết, nhà Hán bèn phái ngưòi tình nhân cũ của Cù thị sang làm sứ giả tại triều đình Nam Việt. Sứ giả này tìm cách nối lại tình xưa với Cù thị và Cù thị bằng lòng. Thế là phe theo Hán bèn đòi đem luật pháp Hán thi hành ở Nam Việt, rồi lại đề nghị nhà vua còn nhỏ tuổi sang ở triều Hán. Nhưng quân lực Nam Việt lúc ấy lại ở trong tay của Thừa tướng Lữ Gia, 1 người gốc Nam Việt mà cả giòng họ đã từng theo Triệu Đà từ ngày sáng lập ra Nam Việt; và qua nhiều thế hệ đã kết thông gia qua lại với hoàng gia.
Sách chép rằng “dân Yueh” tin cậy và yêu thương gia đình họ Lữ hơn cả nhà vua. Lữ Gia chống lại ảnh hưởng ngày càng tăng của nhà Hán nên triều đình chia ra làm 2 phe võ trang. Triều đình Hán bèn phái xuống Nam 2.000 binh sĩ để bảo vệ phe thân Hán ở quanh Thái hậu Nhiếp chính và nhà vua trẻ tuổi Triệu Hưng.
Được tin binh Hán kéo đến, Lữ Gia bèn huy động quân sĩ giết chết bất cứ người Hán nào có thể giết được, kể cả nhà vua Triệu ít tuổi. Rồi ông đưa người con rể của ông lên ngôi, tức là anh cùng cha khác mẹ với Triệu Hưng. Ông lại điều động quân sĩ lên miền biên thùy bố trí. Nhưng Hán triều phản ứng bằng cách phái xuống Nam 5 đạo quân dưới quyền chỉ huy của tướng Lộ Bác Đức, tước hiệu ” Phục Ba Tướng Quân”. Đó là vào năm 111 TCN, năm ấy triều đại Nam Việt chấm dứt. Cuộc kháng chiến của Lữ Gia đã được dân Việt Nam cảm phục và họ lập đền thờ ông ở Mê Linh.
Khi quân Lộ Bác Đức kéo đến gần đất Giao Chỉ, gặp 2 vị sứ giả mà Triệu Đà cử sang Giao Chỉ trước kia, ra đón. Sử chép rằng 2 sứ giả này đã dâng lên Lộ Bác Đức 100 gia súc, 1.000 cân rượu và bản kiểm tra dân số ở Giao Chỉ thuộc thẩm quyền của họ. Lộ Bác Đức công nhận hai người và xác nhận quyền hành của họ trên chức vị thái thú và các Lạc hầu được tiếp tục cai trị dân như cũ.
Nên cân nhắc dữ kiện về chuyện dâng tiến gia súc, rượu và bản kiểm tra dân số. Gia súc và rượu không thành vấn đề, bởi không có lý do gì để nghi ngờ khả năng của Giao Chỉ tiếp tế được những thứ đó. Nghênh đón một đạo quân bằng thực phẩm và đồ uống là một lễ nghi nhằm được sự thuận tiện về sau. Nhưng việc họ nộp bản kiểm tra dân số hàm ý công việc hành chánh đã ổn định. Dù sao đi nữa, chúng ta vẫn có thể tin rằng cuộc kiểm tra dân số đã không được tiến hành rộng rãi trên khắp xã hội Lạc bởi các Lạc hầu vẫn còn nắm quyền kiểm soát rộng lớn đất đai và dân chúng trong thời kỳ đó.
Các sứ giả Nam Việt vẫn tỏ ra quan tâm nhiều hơn đến việc quản lý những đường thông thương buôn bán và quản trị những trung tâm thương mại. Phạm vi hoạt động hành chánh của họ chắc chỉ nhắm vào những vùng tiếp cận với các thị trấn buôn bán nơi họ lưu trú. Có thể là quyền hành của các sứ giả cũng nới rộng ra một vài vùng xung quanh và dân chúng ở những nơi đó có thể đã được nhận biết chính thức theo một phương thức nào đó.
Nhưng ta nên nhớ làm được việc kiểm tra dân số có nghĩa là uy tín của những quan chức Trung Quốc dưới quyền Triệu Đà đã được hợp thức hóa, cho nên chuyện sở hữu của những bản kiểm tra dân số cần được lưu ý—nhất là qua những sự việc lịch sử mà chúng ta vừa thảo luận, khi các quan chức địa phương muốn thiết lập sự hữu hiệu của mình dưới mắt kẻ xâm lăng.
Sau lưng các sứ giả, các Lạc hầu cũng quan tâm đến việc giữ được địa vị của mình như cũ, và có thể cho rằng việc gặp gỡ của hai vị sứ giả với tuớng Lộ Bác Đức chính là kế hoạch của một chính sách chung mà hai bên, Lạc hầu và sứ giả, đã bàn định trước với nhau để đối phó với đạo quân viễn chinh mới đến. Có điều được thấy rõ là sau khi qui thuận nhà Hán, các “Lạc hầu vẫn được cai trị dân như cũ.”
Việc chuyển quyền bá chủ sang tay nhà Hán không phải là được hoàn toàn yên ổn, bởi vì vào năm 111 TCN, có một vị “Tả Tướng Quân của Âu Lạc cũ” được nhá Hán phong tước cho để thưởng công ông đã giết được “vua Tây Vu.” Nhà vua này có thể là người ở Cổ Loa, chư hầu của Nam Việt cũ. Và với sự sụp đổ của Nam Việt, ông có thể đã không chịu quy thuận nhà Hán và mưu toan chống cự. Vị Tả Tướng Quân đó có thể lại là 1 quan chức cao cấp đã phá vỡ được âm mưu này với sự giúp đỡ của 2 sứ giả kia; hoặc có thể ông đã giết nhà vua đó theo chỉ thị của triều Hán, để tự cứu mình. Dân chúng không gặp khó khăn gì sau biến cố này, và địa vị của các Lạc hầu không bị lung lay.
Việc sách chép sơ qua về “nhà vua Tây Vu” là lần đầu tiên tên “Tây Vu” được nhắc đến trong lịch sử Việt Nam. Chúng tôi cũng đã dùng tên này khi sưu tầm các danh xưng vùng đất thành Cổ Loa được xây dựng. Sau năm 111 TCN, nhà Hán có nhắc đến vùng này là “huyện Tây Vu”. Đến năm 43 sau CN, khi các Lạc hầu bị mất ngôi vị, Tây Vu được chia ra làm 2 quận mới và tên Tây Vu bị xoá bỏ. Có thể hữu lý khi liên kết Tây Vu vào di sản Âu Lạc. Chính 1 quan chức “của nước Âu Lạc cũ” đã giết vua Tây Vu và danh hiệu đó chỉ còn sống với thời gian mà Âu Lạc còn được nhắc đến, rồi sau đó nó biến mất khi các Lạc hầu bị các binh sĩ Hán khuất phục. Mặc dầu nguồn gốc chính xác của Tây Vu không đuợc biết rõ, nhưng có thể cho là nó hiện hữu vào thời gian mà An Dương Vương thiết lập triều đình ở Cổ Loa, và có lẽ nó cũng có ít nhiều liên hệ với nước Tây Âu.
Sự thay đổi từ Nam Việt sang nhà Hán không để lại vết tích gì trong tư duy của dân chúng Việt Nam, không như khi Âu Lạc bị mất. Năm 111 TCN đánh dấu sự khởi đầu nền thống trị của Trung Quốc, nhưng vẫn thấy các Lạc hầu tiếp tục cầm quyền cho tới mãi năm 42 SCN mới là năm tiêu biểu rõ rệt nhất cho sự mở đầu Việt Nam bị Trung Quốc thống trị lâu dài.
Nhà Hán đã chia đất Nam Việt cũ ra thành 7 quận: Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm và Hợp Phố trong vùng đất Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay; còn 3 quận kia nằm trong đất Việt Nam. Ngoài 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân, lại lập thêm Nhật Nam ở vùng cực Nam, tận bên kia dãy núi Hoành Sơn. Nhật Nam có nghĩa là “phía Nam của mặt trời. Vì thực tế nó nằm ở phiá nam mặt trời trong những tháng hè. Năm ngọn đèo từng là đường biên giới phiá Bắc của Nam Việt truớc, nay được giao thẩm quyền của những tỉnh về phiá Bắc. Và thế là phương Nam mất hẳn đường biên giới thiên nhiên của mình. Số 7 quận ở miền Nam được tổ chức lại dưới tên chung là Giao Chỉ Bộ, dưới quyền cai trị của một Thứ Sử.
Phủ Thứ Sử lúc đầu được đặt ở thành Luy Lâu trong quận Giao Chỉ, nhưng đến năm 106 TCN được di chuyển về Thương Ngô, ở trung tâm Giao Chỉ Bộ, là Quảng Tây bây giờ. Việc di chuyển Phủ Thứ sử ra khỏi Luy Lâu nằm dưới đồng bằng đông dân cư lên một thung lũng ở Thương Ngô, trên bề mặt xác nhận [chuyện] chính quyền cai trị Trung Hoa lo ngại sẽ bị xã tắc An Nam đồng hóa nếu không thiết lập bản doanh ở khu vực tương đối biệt lập.
Chỉ có tên của 3 vị Thứ Sử thời Tiền Hán được ghi lại: dưới triều Hán Vũ Đế (140-87 TCN); triều Hán Triệu Đế (80-74 TCN); và triều Hán Ngô Phương (57-54 TCN).
Thành Luy Lâu trở thành trung tâm hành chánh của quận Giao Chỉ. Khác với những trung tâm chính trị trước là Mê Linh và Tây Vu, tầm quan trọng ở chỗ “thành nằm kề miền núi”, thành Luy Lâu nay ở ngay giữa vùng đồng bằng. Việc này cho hay là việc định cư dân chúng đã lan sâu đến vùng đất trũng, cũng như tầm quan trọng chính trị đặt vào đường biển và ven biển về Trung Quốc đã tăng hơn lên. Thành Luy Lâu dường như đã là trị sở của 2 vị sứ giả thời Nam Việt cũ, và chính yếu là 1 trung tâm thương mại quan trọng.
Ngoài việc đặt trị sở của quận tại Luy Lâu, nhà Hán còn thiết lập một tiền đồn quân sự dưới quyền chỉ huy của một viên Đô Úy ở Mê Linh, có lẽ là để kiểm soát những con đường dẫn vào trong núi. Những đồn binh nhỏ của quân Hán được lập tại Mê Linh và Luy Lâu, nhưng phạm vi hoạt động của chúng rõ ràng được giới hạn vào việc bảo vệ tài sản và sinh mạng người Hán.
Quận giao Chỉ được chia làm 10 huyện, tất cả đều tập trung ở phiá Bắc và Tây vùng đồng bằng. Xa về phiá Nam, quận Cửu Chân gồm 7 huyện và cả trị sở của viên Đô Úy. Quận Nhật Nam có 5 huyện. Thay vì có quyền hành chánh trực tiếp, những huyện này được hiểu là chỉ đại diện cho những khu vực quá quen với người Trung Quốc, nơi thường có hình thức thương mại hay việc cống nộp nào đó qua địa phương.
Những tiền đồn Hán trước hết lại là những trung tâm thương mại. Nhà Hán vẫn chưa quan tâm đến việc thiết đặt một hệ thống hành chánh toàn diện ở phương trời xa xôi hẻo lánh này. Thực ra, họ chỉ muốn bảo đảm an toàn cho những đường thông thương về thương mại và đi tới được những địa phương có các loại hàng hoá xa xỉ, đắt tiền của miền nhiệt đới, trong biển Nam Hải. Thay đổi sẽ chẳng có lợi gì mà đưa binh sĩ đến những nơi đó lại còn tốn kém nhiều hơn nữa.
Mặc dầu các Lạc hầu vẫn tiếp tục cai trị như cũ, nhưng qui chế của họ bắt đầu có thay đổi nhẹ nhàng, nhưng rất có ý nghĩa. Nhà Hán “thiết đặt” ra những “quận” và “huyện” trong xã hội Lạc có nghĩa là các Lạc hầu chính thức được coi như viên chức cấp quận và huyện. Bằng cách nộp đồ cống lễ đều đều, họ sẽ được cấp cho “giải thao xanh và ấn đồng” để chính thức làm việc dưới con mắt người Hán và đề cao uy tín với những đồng nghiệp. Lớp quí tộc thời các vua cũ, dù là vua Hùng, vua An Dương hay vua “Tây Vu” nay được thay thế bằng những viên chức bàn giấy căn cứ theo cách thức tổ chức hành chánh quận hay huyện. Như vậy là trong khi nhà Hán chính thức cho các Lạc hầu được quyền cai trị theo đường lối cũ, nguyên tắc hành chánh mới đã được chính thức thành lập.
Không có thông tin gì về những biến cố chính trị ở Việt Nam trong thế kỷ 1 TCN, nhưng chúng ta có thể đặt giả thuyết là các Lạc hầu chấp nhận vai trò được chỉ định của họ theo lý thuyết trong khuôn khổ hành chánh cấp quận và huyện của Hán. Giả thuyết này được hậu thuẫn bởi việc kiểm tra dân số vào năm 2 SCN. Theo đó 7 quận huyện của Việt Nam kiểm tra được 143.643 hộ dân với 981.755 người; 67% tổng số hộ và 72% tổng số dân được đăng ký trong khắp Giao Chỉ Bộ năm ấy. (Xem bảng 1). Những số thống kê này cho thấy mức độ tham gia của các Lạc hầu vào công việc hành chánh của Hán, bởi việc đăng ký kiểm tra như thế chắc chắn phải được hoàn thành với sự trợ giúp của họ và có thể được coi như phản ánh xã hội Lạc thời đó.
Việc kiểm tra lại trùng hợp với thời kỳ ông Tích Quang làm Thái Thú Giao Chỉ. Ông ra làm quan dưới thời Hoàng Đế Bình (1-5 sau CN) và được tiếng là đã mở nhiều trường học, thi hành những tục lệ hôn nhân kiểu Trung Quốc, bắt dân phải đi giầy, đội nón cùng là “giáo dục họ về lễ nghĩa và luật pháp.” Những cải cách của ông Tích Quang cho thấy là các quan chức nhá Hán đang bắt đầu một chính sách tích cực hơn đối với đời sống dân bản xứ. Chính sách này được đẩy mạnh thêm trong những năm kế tiếp sau khi có một số dân tị nạn Trung Quốc kéo xuống miền Nam.
Năm 9 sau CN, 1 quan đại thần Trung Quốc là Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán. Những cải cách hành chánh và kinh tế của Vương Mãng không thành công nên đã khiến 1 số lớn nông dân nổi loạn và đưa đến sự phục hưng nhà Hán vào năm 23 sau CN. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi nhưng đầy rối loạn đó, nhiều người đã chạy trốn xuống miền Nam tị nạn, ở đấy đời sống còn được yên ổn hơn. Thứ Sử Giao Chỉ là Đặng Nhượng không chịu theo Vương Mãng và đóng cửa biên giới chống lại tình hình rối ren ở Bắc. Một số lớn những người Hán chức quyền cũng xuống miền Nam trú ẩn. Và những người này đã tăng cường thêm địa vị của những quan chức Hán địa phương và họ có một thái độ ít khoan nhượng hơn đối với xã hội địa phương.
Quan chức Hán nổi tiếng nhất ở Việt Nam trong thời Vương Mãng là Nhâm Diên được bổ làm Thái Thú Cửu Chân năm 25 sau CN. Cứ theo tiểu sử của ông được viết lại, ông thấy nhân dân Cửu Chân không dùng trâu bò trong nông nghiệp. Kết quả là sản xuất kém và phải mua thóc lúa của Giao Chỉ. Kinh tế địa phương chỉ căn cứ trên nghề săn bắt thú và đánh bắt cá. Và Nhâm Diên thấy như thế khó thu được thuế. Vì vậy ông cho làm những nông cụ bằng sắt và cho khai khẩn thêm đất đất hoang để trồng trọt.
Đất khẩn hoang để cầy cấy được mở rộng năm này qua năm khác. Đời sống nhân dân được an toàn hơn. Ông cũng lại thấy rằng đời sống gia đình của dân Cửu Chân không được vững bền. Đàn ông và đàn bà cứ tự nhiên cặp với nhau, không có tư duy vợ chồng, cha mẹ, con cái. Ông bèn ra lệnh bắt mỗi đàn ông trong tuổi 20 đến 50; và đàn bà trong tuổi 15 đến 40 phải lựa chọn cho mình 1 người phối ngẫu. Những quan chức địa phương được lệnh phải trả những chi phí về cưới hỏi cho những người quá nghèo không trả được chi phí đó. Ông lại dạy dân theo những tục lệ cưới hỏi của người Trung Quốc và đã từng đứng chủ hôn cho 1 ngàn cặp vợ chồng trong riêng 1 dịp. Nhiều trẻ em sinh ra sau những đám cưới ấy đều được mang họ của ông. Và sau khi ông trở về Trung Quốc, nhân dân đã lập đền thờ để tưởng nhớ ông.
Tất cả những điều kể trên đều được trích trong bản tiểu sử chính thức của ông. Cho nên chúng ta nên nhớ rằng đó là những quan điểm phiến diện, gần như chắc chắn chỉ đưa ra những nhận xét cường điệu về những thành tích tốt. Hơn nữa, các quan chức lại hay tô điểm cho bức tranh của mình thật xứng đáng để tìm cách thăng quan tiến chức. Đây có lẽ cũng là trường hợp đặc biệt ở Cửu Chân, 1 nơi cực kỳ xa xôi hẻo lánh, không thể kiểm soát được những lời khoe khoang của các quan chức. Và lại cũng là nơi mà các ông thường trú rất lo bị thuyên chuyển đi nơi khác.
Tiểu sử của Nhâm Diên vẫn hay được nói đến để làm bằng chứng rằng việc sử dụng những nông cụ bằng sắt và những trâu bò kéo đã được đưa vào Việt Nam thời đó. Đây là 1 điều xét đoán hơi vội vàng bởi vì những hoạt động của Nhâm Diên chỉ giới hạn trong vùng Cửu Chân, 1 địa phương tương đối lạc hậu. Nếu Giao Chỉ có thể sản xuất được thóc luá thặng dư để tiếp tế cho Cửu Chân thì nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng tất đã phải phát triển lắm rồi.
Những lưỡi cầy bằng đồng thuộc văn hoá Đông Sơn đã được đào thấy ở Mê Linh và những xương trâu cũng đào thấy ở đó đều có niên đại thiên niên kỷ 2 TCN. Chúng ta cũng đã thấy nói 100 đầu gia súc, có thể là trâu, được dâng nộp cho quân Hán năm 111 TCN. Hai đồ vật bằng đồng từ thời kỳ Đông Sơn đuợc đào thấy ở Mê Linh trông giống những mẫu cầy đã được súc vật kéo. Tuy bằng chứng này không đủ mạnh để hậu thuẫn cho điều xác định là trâu đã được dùng để kéo cầy trong thời tiền Hán. Nhưng nó cũng chứng tỏ việc dùng sức vật kéo vào những thời sơ khai như vậy không phải là không thể đuợc. Những cày có thể do người kéo, nhưng cứ theo ý niệm thông thường những súc vật kéo cũng có thể được đem dùng nếu như có nhiều súc vật.
Việc dùng súc vật kéo cày dễ tin được hơn bởi việc có những nông cụ bằng sắt, quá nặng, người không thể kéo đi dễ dàng được. Chúng ta đã thấy vào năm 158 TCN, bà Lã Hậu đã cấm xuất khẩu sắt và gia súc cùng những thứ khác sang Nam Việt như thế nào. Đây là bằng chứng đầu tiên nói trong sử liệu về chuyện sắt ở miền Nam. Có thể, nếu việc mua bán sắt bị cấm, truớc đó đã có mua bán sắt rồi. Sử gia Nhật Goto Kimpei đã đoán rằng sắt đầu tiên được đưa vào miền Nam bởi những thương nhân để đổi lấy những đồ hiếm hoi và quí báu vẫn được lớp cầm quyền Trung Quốc ham muốn.
Lại có những bằng chứng khác cho thấy chắc chắn rằng cầy sắt và súc vật kéo được dùng ở đồng bằng sông Hồng từ trước năm 111 TCN. – đây các ruộng Lạc thường cung cấp cho một xã hội đã đủ tiến bộ để áp dụng những cải tiến kỹ thuật trong nông nghiệp. Bất cứ kỹ thuật nào giúp tăng gia được sức sản xuất nông nghiệp, nhờ đó thu được thặng dư cũng được đem dùng để có lợi cho các Lạc hầu. Khó mà tin được với những đại diện của xứ Nam Việt ở ngay cạnh nách mà những Lạc hầu lại không được nghe nói gì đến những cầy sắt, và lại không biết lợi dụng những nông cụ mới ấy. Những sử liệu nói đến các ruộng Lạc dưòng như không nói đến Cửu Chân. – đó, việc phát triển nông nghiệp rõ ràng chậm hơn Giao Chỉ.
Tin tức nói về những cải cách của Nhâm Diên ngụ ý nói đến mục tiêu thu thuế trước đã. Một nền kinh tế săn thú và đánh cá thì không có thặng dư. Khi khuyến khích sử dụng cầy sắt và súc vật kéo, khẩn thêm đất hoang, Nhâm Diên nhắm mục tiêu có nguồn thu thuế ổn định. Những cố gắng của ông để cải cách hệ thống gia đình cũng vì mục đích đó. Bởi vì dân chúng không thể được kiểm tra và đánh thuế nếu không được nhận đúng là thuộc thành phần của 1 nhóm có họ hàng với nhau.
Nhưng chúng ta cũng có chút hoài nghi về những lời khoe khoang trong bản tiểu sử của Nhâm Diên nói rằng ông đã dạy dân Cửu Chân làm nông nghiệp, bởi cuộc kiểm tra làm năm 2 sau CN đưa ra 1 dân số kiểm tra là 35.743 hộ với 166.013 người. Số hộ đăng ký cho thấy có 1 đời sống nông nghiệp ổn định. Sự thật có thể là Nhâm Diên đã tăng gia được số đất canh tác và cố gắng hữu hiệu hoá việc trồng trọt bằng cách cho chế tạo những nông cụ bằng sắt và nhiều để có thể sẵn sàng sử dụng.
Những cải cách về hôn nhân mà Tích Quang và Nhâm Diên đưa ra cũng nói nên 1 sự khác biệt lớn lao giữa hệ thống gia đình của Việt Nam cổ so với Trung Quốc. Quan niệm hôn nhân của 1 xã hội phản ánh trực tiếp hệ thống gia dình của xã hội ấy. Tạo ra hệ thống gia đình Việt Nam với một quyền hành lỏng lẻo, những khuynh hướng cá nhân chủ nghiã, và với 1 đặc tính tay đôi là mục tiêu đầu tiên của chính quyền.
Quan niệm về một quyền hành chánh trị căn cứ trên một hệ thống gia đình phụ hệ được quản lý chặt chẽ. Gia đình Việt Nam, vì tính chất của nó, không phù hợp với gia đình kiểu Trung Quốc bởi vì nó thiếu mất những kỷ luật là thứ khiến cho gia đình Trung Quốc thành nền móng quyền lực Trung Quốc về chính trị và hành chánh. Chỉ tới mức độ nào mà có thể bắt người Việt Nam phải tuân theo hệ thống gia đình Trung Quốc khi ấy mới có thể cai trị được họ chiếu theo những quan niệm chính thống và sát nhập được họ vào thế giới Trung Quốc. Trung Quốc tìm cách khuyến khích lối hôn nhân ổn định một vợ một chồng để lấy đó làm cân bằng cai trị. Sự thất bại của Trung Quốc không thay đổi được chế độ gia đình ở Việt Nam trong bao nhiêu thế kỷ cầm quyền kiểm soát chính trị cuối cùng có nghĩa là sự thất bại trong cố gắng thống trị Việt Nam nói chung.
Chính sách của Trung Quốc trong những thập niên đầu của thế kỷ Thứ Nhất SCN nhằm hai mục tiêu. Một là phát triển nền kinh tế nông nghiệp cho ổn định dể dễ bề thu thuế. Hai là thiết lập một xã hội phụ hệ căn cứ trên hôn nhân, một vợ một chồng để có thể đáp ứng được lối cai trị của mình. Hai mục tiêu này tác động lẫn nhau. Nâng cao sản xuất nông nghiệp tức là tăng gia vai trò của người đàn ông trong nông nghiệp; điều này lại khuyến khích quan niệm của Trung Quốc về gia đình và xã hội. Với việc sử dụng cày sắt và những súc vật kéo, vai trò của người đàn ông trong nông nghiệp lai gia tăng cùng với sức sản xuất. Hơn nữa, những đơn vị gia đình một vợ một chồng lại khiến cho việc đăng ký và đánh thuế dễ dàng hơn.
Những chính sách ấy tượng trưng một sự thay đổi trong tư duy của Trung Quốc về Việt nam. Thay vì đơn giản thu vào những hàng hoá hiếm có và để các Lạc hầu tiếp tục động tác như cũ thì bây giờ Hán cố gắng phát triển nông nghiệp và thu thuế. Tư duy mới này dường như là do kết quả của sự hiểu biết ngày càng rõ về tiềm năng nông nghiệp của Việt Nam. Sự hiểu biết đó đã được đánh thức dậy bằng những thành công của các Lạc hầu khi có thặng dư đáng kể về luá gạo từ các ruộng Lạc. Thành công này cũng có thể được coi là hợp lý nhờ có ổn định về chính trị do hoà bình Hán đem lại cũng như nhờ những cải tiến kỹ thuật nông nghiệp.
Những cải cách trong thời Vương Mãng đặt ra một thử thách cho các Lạc hầu. Nếu các viên chức địa phương được yêu cầu đóng tiền lệ phí hôn nhân kiểu Trung Quốc cho những người nghèo theo bản tiểu sử của Nhâm Diên, như thế có nghiã là các Lạc hầu đang bị buộc phải trả tiền cho việc bành trướng ảnh hưởng của Trung Quốc lên đầu nhân dân mình, bởi vì chính các Lạc hầu là những viên chức địa phương đã lãnh ấn đồng và giây thao xanh của nhà Hán.
Trong khi quan niệm hôn nhân bành trướng khắp xã hội Lạc thì những hậu thuẫn văn hoá cho quyền hành của các Lạc hầu bắt đầu tan rã. Các Lạc hầu và những viên chức Hán tranh nhau kiểm soát những ruộng Lạc và số dân cầy các ruộng ấy. Vì những khác biệt giữa nguyên tắc cũ về giai cấp quí tộc và các nguyên tắc mới về hành chánh quận, huyện càng trở nên rõ rệt nên những Lạc hầu phải chọn lựa hoặc làm viên chức cấp dưới trong chính quyền Hán, hoặc là bỏ ra chiến đấu ngoài chiến trường.
việt nam khai quốc: hai bà trưng và nguồn gốc của từ “việt nam” (chương 1, phần 4)
("Hai Bà Trưng" –tranh lụa của Nguyễn Sáng (1977))
Năm 29 SCN, sau khi nhà Hán phục hưng trở lại, Đặng Nhượng, viên Thứ Sử Giao Chỉ trung thành với nhà Hán trong thời Vương Mãng đã được triều đình khen thưởng. Rất nhiều, và có lẽ là hầu hết những người Hán tị nạn đã quay trở về Bắc. Nhưng cải cách tiến hành ở Việt Nam trong thời Vương Mãng đã được những viên chức có tài thực hiện, những người mà có lẽ đã không đến miền Nam nếu không có rối loạn ở miền Bắc.
Với nhà Hán trở lại ngôi báu, những người có khả năng nôn nóng muốn trở về quê hương để làm ăn như cũ. Còn miền Nam được để lại cho những người kém hơn. Tô Định, viên Thái Thú mới của Giao Chỉ, có tiếng là người rất tham ô và bất tài. Ông được miêu tả như vậy chiếu theo khuôn mẫu mà sử Trung Quốc thường phê phán những hạng xấu kém có hành vi gây ra những cuộc nổi loạn của dân chúng. Trong thời gian Tô Định tại chức, các Lạc hầu bắt đầu thử thách các viên chức Trung Quốc và từ đó cáng ngày càng trở nên bạo dạn hơn.
Viên Lạc hầu ở Mê Linh có người con gái tên là Trưng Trắc, có chồng là Thi Sách, Lạc hầu ở Chu Diên, chỉ cách Mê Linh một quãng đường ngắn ở hạ lưu sông Hồng. Theo sử liệu Trung Quốc, Thi Sách tính tình mạnh bạo, và Tô Định tìm cách kềm chế ông bằng những thủ tục pháp lý, cố "trói ông lại bằng luật pháp." Trung Trắc "là người dũng cảm và chẳng sợ gì cả" đã xúi giục chồng hành động và bà trở thành nhân vật chính trong cuộc động viên các Lạc hầu chống lại người Trung Quốc.
Tô Định không đủ tư cách để so gươm với các Lạc hầu. Theo một phúc trình sau đó thuật về cuộc nổi dậy, Tô Định chỉ biết mở to mắt khi thấy tiền bạc, nhưng nhắm mắt lại khi phải trừng trị kẻ làm loạn; ông sợ phải ra ngoài đánh dẹp." Mùa xuân năm 40 SCN, những trại định cư của người Trung Quốc bị người Việt càn quét và Tô Định bỏ chạy. Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố cùng nổi lên theo Trưng Trắc. Trưng Trắc lập triều đình, đóng đô ở Mê Linh và được tôn làm Nữ Vương bởi nhân dân 65 thành. Trong hai năm sau đó, bà "điều chỉnh lại thuế má” ở Giao Chỉ và Cửu Chân.
Nói rằng bà "điều chỉnh" lại thuế má trong hai năm, phải hiểu rằng bà "bãi bỏ thuế má." Bà cai trị từ Mê Linh là đất đai của tổ tiên và quyền hành của bà dã được thực thi không phải nhờ những thuế đánh theo kiểu Trung Quốc. Những quí tộc theo bà tôn Bà là Nữ Vương và chắc chắn đã dâng hiến những tặng phẩm có thể gọi là những đồ "cống nạp." Nhưng phong trào mà bà lãnh đạo chính là một phong trào phục hưng đất nước, một cách quay trở lại với một chính sách giản dị và thích hợp hơn với những đặc thù truyền thống của Việt Nam.
Những "thuế" mà bà bãi bỏ chính là những khoản mà các viên chức Hán bắt các Lạc hầu cống nạp để đổi lấy việc được thừa nhận quyền hành cũ. Từ một số ít điều được biết về việc thu thuế ở Việt Nam bởi nhà tiền Hán, chúng ta có thể suy ra rằng phần chính là những hình thức lao động cưỡng ép và sự dâng tiến những sản phẩm xa xỉ miền nhiệt đới. Tên những viên chức được giao nhiệm vụ thu thuế ấy cũng được nói rõ. Những Lạc hầu chống lại chính sách thu thuế mà Trung Quốc đã áp dụng như nền tảng của sự áp chế. Thay vì phải phục tòng chính sách thu thuế theo luật định của nhà Hán, các Lạc hầu muốn được trao đổi những tặng phẩm theo quyền thừa kế và có lợi cho cả đôi bên.
Bà Trưng Trắc, cùng với người em gái là Trưng Nhị, người nổi tiếng là bạn đồng hành chiến đấu của chị, vẫn được người Việt Nam thương nhớ và qua bao nhiêu thế kỷ vẫn có nhiều truyền thuyết được kể lại về hai Bà. Các sử gia Việt Nam về sau đều cho rằng vì ông Thi Sách bị Tô Định giết chết nên hai Bà nổi dậy. Nhưng không thấy chứng cớ nào cho thấy như vậy. Nhất định là ý kiến này nảy sinh từ thành kiến phụ hệ của những thế kỷ về sau không nhìn nhận người đàn bà là người lãnh đạo một cuộc nổi loạn và đồng thời được dân tôn lên làm vua trong khi người chồng vẫn còn sống. Sử liệu Trung Quốc đã nói rõ rằng ông Thi Sách phò trợ cuộc nổi dậy của vợ ông. Không khí mẫu hệ thời đó lại được chứng thực thêm bằng sự kiện là ngôi mộ và đền thờ của mẫu thân bà Trưng vẫn còn trong khi không còn di tích gì về phụ thân của bà cả. Tên tuổi và tiểu sử của trên 50 tùy tướng theo bà trong cuộc nổi dậy đều được khắc bia ghi lại trong các đền thờ Hai Bà, và một số lớn những vị đó đều là nữ tướng.
Đầu năm 41 SCN, 1 trong những vị tướng tài giỏi nhất của Trung Quốc là Mã Viện, vừa mới dẹp xong 1 cuộc nổi loạn ở An Huê, đã được bổ nhiệm cầm quân xuống miền Nam xa xôi vào lúc ông 56 tuổi. Ông được phong tước hiệu Phục Ba Tướng Quân, tước hiệu mà tướng Lộ Bác Đức được phong cách trước một thế kỷ rưỡi. Với 8000 quân chính quy và 12,000 dân quân lấy từ các huyện ở miền Tây Giao Chỉ Bộ. Mã Viện tiến xuống hải cảng Hợp Phố, nơi có con đường biển bắt đầu đi xuống Giao Chỉ quận. Khi viên tướng chỉ huy đội chiến thuyền bỗng nhiên chết, Mã Viện thấy rằng số 2000 chiến thuyền sẵn có không đủ cho binh sĩ. Thế là ông cho tiến quân theo đường bộ dọc bờ biển, đi tới đâu mở đường tới đó, còn thuyền thì chở lương thực đi theo tiếp tế.
Cuộc tiến quân không bị cản trở cho tới khi Mã Viện xâm nhập vùng chiến lược Tây Vu, nơi người Việt Nam vẫn có truyền thống chặn đường đón đánh kẻ thù. Nhưng đến Cổ Loa, ông bị chặn lại. Ông bèn rút về vùng cao Lãng Bạc nằm hơi chếch về phía Đông và hạ trại.
Vùng cao Lãng Bạc trông xuống bờ phiá Nam của một hồ cũng mang tên Lãng Bạc; hồ này ăn thông đến sông Cầu. Đội thuyền tiếp tế của ôngcó lẽ đã theo sông Cầu đi xuống và bỏ neo trong hồ. Bấy giờ là vào mùa Xuân năm 42 TCN. Mùa mưa đã bắt đầu. Vốn không quen với sức nóng và sự ẩm thấp của gió mùa, nên Mã Viện cho quân nghỉ ngơi và định đợi đến mùa khô sẽ mở cuộc tấn công.
Ông nói: " Khi tôi còn đóng quân ở giữa Lãng Bạc và Tây Vu, giặc còn chưa giao chiến, mưa rơi, hơi nước bốc lên, bệnh dịch bắt đầu. Sức nóng thật là không thể chịu nổi; thậm chí tôi thấy một con chim bồ cắt đang bay bỗng bị rơi xuống nước rồi chết."
Thấy quân Hán đóng trong lòng đất mình, các Lạc hầu, theo giải thích trong thư tịch Việt Nam, bắt đầu mất can đảm. Bà Trưng rõ ràng đã nhận thấy nếu Bà cứ ngồi yên không động binh chỉ khiến cho các tùy tướng mất tin tưởng. Nên Bà đã khai chiến. Nhưng Bà đã bị thua lớn, bao nhiêu ngàn người bị bắt và bị chặt đầu. Ngoài ra, trên 10,000 người hàng quân Trung Quốc. Bà và các tùy tướng rút về chân núi Tản Viên ở Mê Linh, nơi đất tổ của Bà. Có người chạy về Cửu Chân. Mã Viện đuổi theo đến Mê Linh và đến cuối năm ấy, bắt được cả hai Bà. Tháng Giêng năm sau, thủ cấp của hai Bà được đưa về triều đình Hán ở Lạc Dương (Lo yang).
Tính chất và quyền lực của hai Bà đuợc chứng tỏ rõ trong việc này. Bao lâu mà Bà còn duy trì được thắng lợi, những người theo Bà còn đứng sau lưng Bà. Nhưng khi Bà thất bại, bà bị bỏ rơi mau lẹ. Bà bị bắt buộc phải đánh trước chỉ là để cầm chân những người theo mình. Bà không có một đội quân có kỷ luật. Thay vào đó là một số Lạc hầu và những tùy tùng, người nào cũng chỉ lo cho quyền lợi của mình và sẵn sàng ở lại hay bỏ đi nếu thấy đằng nào có lợi hơn.
Điều này chứng tỏ là qua một thế kỷ rưỡi bị Hán đô hộ, tinh thần và giá trị truyền thống của dân chúng đã bị sói mòn. Một yếu tố nữa ảnh hưởng đến quyền lãnh đạo của Bà không được tôn trọng là cái ảnh hưởng ngày càng lớn của tư duy phụ hệ do người Hán truyền bá. Đại Việt sử ký toàn thư viết vào thế kỷ 15 đã giải thích như sau:"Bà Trưng thấy kẻ thù mạnh mà quân mình không có kỷ luật, nên sợ không thể thắng được. Những người nào theo Bà, thấy Bà là một phụ nữ, sợ Bà không chống cự nổi quân thù và do đó, bỏ đi." Tình trạng tinh thần của lớp người Việt Nam cầm quyền ở thế kỷ 15 có thể đã phản ánh qua những lời lẽ đó, mà thật ra nó cũng có phần đúng.
Mã Viện đã dùng gần trọn năm 43 vào việc đặt nền móng cho quyền thống trị trực tiếp của nhà Hán tại đồng bằng sông Hồng. Chúng ta sẽ xét những cải cách của ông từng chi tiết ở chương sau. Đến gần cuối năm ấy Mã Viện lại dùng 2000 chiếc thuyền chở quân và lương thực xuống Cửu Chân, nơi những Lạc hầu ngoan bướng ẩn trốn. Thuyền theo những nhánh lớn của sông Hồng ra tới cửa biển và xuôi xuống đồng bằng sông Mã. Nơi đây, Mã Viện quét sạch quân thù của ông. Có người chạy lên vùng ngược, vùng núi cao ẩn trốn, có người lại xuôi xuống nữa về Nam dọc theo bờ biển. Mã Viện chia quân ra làm hai cánh quân đi về phía Nam tới Nghệ An ngày nay, lúc đó là Nam Cửu Chân. Khoảng từ 3000 đến 5000 ngưòi bị bắt và bị chặt đầu, hàng trăm gia đình bị đầy lên vùng Hoa Nam. Mùa xuân năm 44 SCN, Mã Viện rời Giao Chỉ về Bắc. Mùa thu năm sau, ông về đến kinh đô Hán và được tiếp đón như 1 vị anh hùng.
NAM VIỆT VÀ VIỆT NAM
(Thế giới cổ của các dân tộc Việt ở biên thùy Đông Nam Trung Hoa)
Cuộc viễn chinh của Mã Viện là một biến cố quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Thời kỳ văn hóa Đông Sơn chấm dứt, và những Lạc hầu đã làm giàu qua văn hóa Đông Sơn không còn được nói đến nữa. Người Việt phải học những phương pháp làm việc mới từ những viên chức ngoại bang. Trước đó, họ đã quen với người Trung Quốc lâu rồi; nhưng bỗng nhiên nền thống trị được áp dụng một cách trực tiếp hơn trong khi những rào cản của tinh thần chống quyền lực Trung Quốc bị gỡ bỏ. Người dân Việt Nam bị mất nền tảng lãnh đạo cũ của mình và sự tranh đấu để bảo tồn văn hóa đi đôi với vấn đề sống còn dưới một chế độ bóc lột và xa lạ. Khác với văn hóa Nhật Bản đã trưởng thành và vượt ngoài tầm những đe dọa từ bên ngoài, văn hóa Việt giữ được rất ít điều không trực tiếp liên hệ đến sự tồn tại của quốc gia.
Người Trung Quốc cho rằng những dân tộc "man di" nào may mắn được họ chinh phục về sau sẽ được “văn minh hóa,” nghĩa là sẽ hoá thành Trung Quốc. Bất cứ danh xưng nào tượng trưng một dân tộc riêng biệt, như Lạc chẳng hạn, đều bị những danh từ mang ý nghĩa rộng rãi khác phá loãng đi, như từ Việt (Yueh) chẳng hạn, được dùng cùng nghĩa với "man di." Những sử gia Trung Quốc viết về cuộc viễn chinh của Mã Viện đã nói đến người Việt cổ với tên gọi Lạc Việt hay đơn giản là Việt. Một học giả Trung Quốc khác, khi phê bình tiểu sử của Mã Viện, đã nhìn nhận "Lạc là một tên khác của Việt".
Vì thế Việt đã trở thành một cách nhận thức của Trung Quốc khi nói về hằng hà sa số những dân tộc phi Hoa ở miền Nam. Nhận xét này bắt đầu với văn hóa Việt ở Chiết Giang và Bồ Kiên với di sản truyền lại cho những giang sơn ở dọc miền duyên hải Đông Nam Trung Quốc. Đó là di sản chính trị; đem truyền thống vương quyền đến miền biên thùy phía Nam của Trung Quốc. Tên "Âu" chỉ phản ảnh một lực lượng quân sự của dòng Việt. Tuy văn hóa Việt không bành trướng tới phía Nam Bồ Kiên, nhưng thành tố của di sản ấy đã đến miền Bắc Việt Nam từ ảnh hưởng của lớp người cầm quyền đến tị nạn.
Theo lịch sử Trung Quốc, dòng giống Việt không phải hoàn toàn man di. Sách sử ký nói vua Câu Tiễn (505-465 TCN)—người cai trị xứ Việt trong thời kỳ cường thịnh nhất– chính là dòng dõi của vua Vũ, người sáng lập ra nhà Hạ. Ngưòi Việt vì vậy đã được coi như một dòng suy thoái của “thế giới văn minh”–một dân tộc rơi vào tình trạng man di vì đã ở lâu dài với người man di.
Với sự chinh phục của Trung Quốc ở miền Nam, từ "Việt" được áp dụng không phân biệt cho tất cả những dân tộc bị chinh phục ở dọc bờ biển phía Nam. Thế là "Việt" được dùng để chỉ định vị trí của đám dân bị chinh phục bởi thế giới và văn minh Trung Quốc. Tất nhiên đó là một từ tạm dùng cho những dân tộc rồi sau sẽ được Trung Quốc hóa. Còn đối với những dân mà sau này quan hệ với Trung Quốc sẽ đứt đoạn, từ Việt vĩnh viễn biểu tượng bản sắc của họ trong thế giới Trung Quốc và đồng thời sự khác biệt của họ.
Trung Quốc coi giống Lạc là một giống người thuộc dòng Việt, và do đó người Trung Hoa gán ghép những nét văn hóa sáo mòn cho người Lạc để nhận diện họ là cùng trong dòng giống Việt. Những nét đó, ngoại trừ việc xâm mình, chỉ là những thành kiến đối nghịch với cái mà họ coi là của xã hội văn minh. Nói chung, những thành kiến này chỉ là tạo tác từ những điều mà họ cho là man rợ.
Khi sự thống trị của Trung Quốc trở thành một quá trình lâu dài, người Lạc thời cổ đã thấm nhuần thuật ngữ của chủ nhân mình đến mức cũng tự coi mình là một trong số những dân tộc Việt. Việt là một danh từ mà người Trung Quốc hiểu rõ. Họ có thể chấp nhận nó như một định nghĩa văn hóa chính thức cho dù nó bao gồm cả những giống người đã vượt ra khỏi lãnh vực văn minh của họ. Lạc không có nghĩa gì đối với họ. Các tác giả Trung Quốc khi nói đến Lạc lại phải viết kèm với Việt, tức là Lạc Việt. Hoặc phải giảng giải "Lạc" chỉ là một tên hiệu khác để gọi “Việt.”
(Huyền thoại Âu Cơ-Lạc Long Quân phối hợp bản sắc Lạc với khái niệm Bách Việt (tranh Vi Vi))
Khi tiếp xúc với những lãnh đạo của triều đình Hán, người Việt Nam cổ đều thấy tên Lạc chẳng có ý nghĩa gì, nhưng tên Việt còn được chút nhìn nhận. Khi họ hiểu biết thêm về đám người đã chinh phục mình, quan niệm về bản sắc của họ đã biến chuyển để phản ảnh điều này. Huyền thoại Lạc Long Quân với Âu Cơ được xét lại để gọi con cháu Lạc là dòng dõi Bách Việt, để được đề cao địa vị trong văn tự Trung Quốc.
Nói vậy không có nghĩa là không có một quan hệ văn hóa hay ngôn ngữ nào giữa những người Việt cổ–gọi là Lạc–với những dân tộc ở miền Đông Nam Trung Quốc mà người Trung Quốc biết đến là "Việt." Một cuộc khảo cứu gần đây về ngôn ngữ cho thấy rằng tất cả những dân tộc Việt ở Đông Nam Trung Quốc, cùng với những người Việt Nam cổ, đều nói tiếng Nam Á; và từ "Việt" có thể để chỉ riêng một nhóm ngôn ngữ mà thôi. Chẳng hạn những từ không phải là từ "Hoa" dưới đây, trong ngôn ngữ người Mân ở Bồ Kiên, giống những từ trong ngôn ngữ Việt Nam và những từ của các ngôn ngữ Nam Á khác: Đó là những từ chỉ người lên đồng; con (khi thưa, xưng với người trên như bố, mẹ, ông bà); con sam; động từ biết; bọt, bèo, con kẻ. Hơn nữa, những tham khảo sơ khai về tiếng Việt Nam qua các nguồn gốc Trung Quốc ở thế kỷ 2 SCN đều nhận ra rằng từ "chết" là từ "Việt", và từ "chó" là một từ "Nam Việt."
Cứ xét theo đó, chúng ta có lý để nói rằng tiếng Việt Nam cổ là một phần của một thế giới văn hóa và ngôn ngữ rộng rãi, bao gồm những dân tộc Việt ở Đông Nam Trung Quốc. Tên "Việt" đã đi vào Bắc Việt Nam theo cái nhìn của Trung Quốc coi người Việt thời thượng cổ là thành viên của cái thế giới rộng rãi ấy; tuy “Việt” không phát xuất từ nguồn gốc Lạc.
"Việt" là phát âm Việt nam của từ "Yueh," do đó thành tên của dân tộc Việt. Tên "Việt Nam" ngày nay có từ năm 1803, khi sứ bộ của triều Nguyễn sang Bắc Kinh để thiết lập quan hệ ngoại giao. Họ muốn đặt tên nước là "Nam Việt," nhưng Trung Quốc chống đối, cho rằng tên đó gợi lại sự phản loạn của Triệu Đà thời xưa và đổi lại là "Việt Nam." Thành kiến của Trung Hoa với những câu nệ đế quốc lúc đó gây nhiều phẫn uất. Nhưng đến thế kỷ 20, tên "Việt Nam" đã được nhân dân Việt Nam mọi nơi chấp nhận.