Chiến tranh Việt nam và Thượng nghị sĩ Mỹ, John KERRY, một thời là ứng cử viên tổng thống Mỹ ( 2004 )
Đầu năm 2008, tại Thương viện Mỹ, đã có một buổi điều trần nhằm chuẩn bị cho cuộc phê chuẩn dự luật về Nhân Quyền cho Viêt nam. Dự luật này đã đươc Hạ viện thông qua năm trước vào tháng 9 năm 2007.
Nhưng điều đáng chú ý là trong quá khứ, khi TNS John KERRY ( TNS JK )làm chủ tịch Ủy Ban Ngoại Giao, thì dự luật Nhân Quyền cho Viêt nam đã không được mang (?) ra biểu quyết. Và phải đợi đến lúc thay đổi chủ tịch, đến nhiệm kỳ của TNS Barbara BOXER, thì buổi điều trần mới đươc tổ chức,với sự tham gia của TNS Jim WEBB.
- Nói về TNS John Kerry, ứng cử viên tổng thống Mỹ ( 2004 ).
Buổi tiếp đón nói trên rất long trọng. Chính Tổng bí thư Đổ Mười đã ra nghênh tiếp, tại viện bảo tàng chứng tích chiến tranh Việt Nam ( cũng còn được gọi là viện bảo tàng những tội ác chiến trang Mỹ-Ngụy )
Trong lời ban khen, đảng CSVN đã thẳng thắn nhìn nhận sự đóng góp của TNS JK và phong trào phản chiến của ông như là một sự đóng góp trực tiếp và tối ưu, góp công vào thắng lợi 30 tháng 4, 1975 của CSVN.
Dưới bức tranh, vài giòng chú thích như sau :
" Ông Tổng bí thư đảng Công sản tiếp ông Thượng nghị sĩ John KERRY trong những ngày 15 - 18 tháng 7 năm 1993"
"...đảng CSVN công nhận rằng những ngươi phản chiến Mỹ là một lưc lượng tối ưu trong công cuộc phá hoại các nỗ lực của nước Mỹ nhằm yểm trợ chiến tranh tại Việt Nam, và đó cũng là một chủ lực đã đóng góp thực thụ cho thắng lợi cuối cùng vào năm 1975..."
(còn tiếp ... )
Trương Tấn Trung
8.10.2009
Bài 2: Những tay sai MỸ của Hà nội
Chiến tranh Việt nam và Thượng nghị sĩ Mỹ, John KERRY, một thời là ứng cử viên tổng thống Mỹ ( 2004 )Lãnh tụ của phong trào nhân dân liên hiệp đòi hòa bình và công lý, (People coalition for peace and justice, PCPJ) cũng như của VVAW, (Vietnam veteran anti war).
Có những tài liệu, đã có từ lúc chiến cuộc tại Việt Nam, nói lên được sự liên hệ chặt chẽ giữa các phong trào phản chiến ( như VVAW hay PCPJ ) và CSVN.
Trong đó có Tns John KERRY là người nổi bật, vì ông là lãnh tụ của cả hai tổ chức phản chiến mạnh nhất thời đó :
1 Phong trào nhân dân liên hiệp đòi hòa bình và công lý, ( People coalition for peace and justice, PCPJ )
2 Hội cựu chiến binh chống chiến tranh Việt nam, ( Vietnam veteran anti war, VVAW )
2 Hội cựu chiến binh chống chiến tranh Việt nam, ( Vietnam veteran anti war, VVAW )
Có những tài liệu quan trọng, do quân đội VNCH bắt được từ quân đội CS trước 1975, khẳng định mối liên hệ, sự gắn bó giữa CS Hà nội, và những tổ chức phản chiến, trong những năm mà John KERRY đương lãnh đạo những tổ chức này.
- Tài liệu 01 : sự phối hợp công tác giữa CS và phe phản chiến .
Đó là một « Bản Thông Cáo », được VC phổ biến tại Nam Việt Nam trên lãnh thổ VNCH vào năm 1971. Do quân lực VNCH bắt được, nay được lưu trữ tại văn khố Mỹ. Có nội dung thảo luận về các chiến lược nhằm phối hợp hành động và công tác giữa bên nầy, là các chiến dịch tuyên truyền của CS tại nội địa Nam Việt Nam và bên kia, là các chiến dịch hành động của những tổ chức « bạn », phản chiến tranh Việt Nam, tại Mỹ.
Điểm đặc biệt trong tài liệu 01 nhấn mạnh về đường giây giao liên trực tiếp giữa các thành phần phản chiến, đó chính là các phái đoàn của MTGP và CSBV tại Ba Lê, và đường giây này đã được xử dụng để họp mặt với các thành phần phần phản chiến, đương thời với cuộc đàm phán về hòa bình tại Ba Lê.
Trích dẫn :
… The spontaneous antiwar movements in the US have received assistance and guidance from the friendly ((VC/NVN)) delegations at the Paris Peace Talks. …( VC: Việt cộng, NVN: Băc Việt)
( những phong trào phản chiến (chiến tranh Việt nam) phát ra tại Mỹ đã được nhận sự yểm trợ và chỉ đạo từ các phái đoàn thân hữu, (VC/CSBV) tại hòa đàm Ba lê)
Câu trên đây càng nặng ý khi chính Tns John KERRY đã đích thân xác nhận sự việc.
Ông nói rằng ông đã gặp cả hai phái đoàn ,CSBV và VC, tại Ba Lê, vào tháng 6 năm 1970, đương lúc hòa đàm Ba Lê, và ông đã đàm luận với bà Nguyễn thị Bình, bộ trưởng bộ ngoại giao của Chính Phủ Cách Mạng Lâm thời. ( PRG) của Nam Việt Nam, tức là của VC.
Các bảng báo cáo của FBI, còn đề cập đến việc KERRY vẫn còn tiếp tục trở lại Pháp vào tháng 8 năm sau (năm 1971), để tiếp xúc với phái đoàn CSBV và đã dự trù thêm một chuyến đi lần thứ 3, vào tháng 11, cùng năm.
Trước khi các tài liệu này được đưa ra, không ai có thể đoán chắc được mối liên quan trực hệ và có thể nghĩ rằng chính CSBV đã lèo lái, dẫn dắt đường đi nước bước cho các phong trào phản chiến nhằm đạt đến các mục tiêu của họ, qua lối đưa ra những chỉ thị, thông qua ngã các lãnh tụ của các phe phản chiến chống chiến tranh Việt nam, khi những lãnh tụ này, (như J KERRY), đã đến đặc biệt đến từ Mỹ để gặp họ, nhiều lần ngay tại Ba Lê.
Khi đi sâu vào tài liệu này, thì chúng ta thấy rõ ràng là Nguyễn thị Bình đã ra chỉ thị cho KERRY, chỉ vẽ đường lối cho ông ta, và xuyên qua ông ta, chỉ vẽ lại cho các phong trào phản chiến tranh Việt nam, chỉ vẽ những phương cách hữu hiệu nhất để phục vụ cho mục tiêu và quyền lợi của CS Hà nội, nhằm đánh phá sự yểm trợ của Mỹ đối với VNCH, trong các chiến dịch mùa Xuân và mùa Hè 1971, chiến dịch chủ đạo của VC sắp tới : “đề nghị 7 điểm cho hòa bình” của MTGP.
“Kế hoạch hòa bình 7 điểm” nhằm ép tổng thống NIXON phải ấn định ngày rút quân đội Mỹ khỏi Việt nam cộng hòa, và cùng lúc chấm dứt chiến tranh Việt nam.
Không những thế “Kế hoạch hòa bình 7 điểm” còn muốn gỡ tội cho CSBV và đổ lỗi cho Mỹ, nói rằng sở dĩ Hà nội chưa có thể công bố ngày thả các tù binh mỹ, thì điều đó chỉ vì họ nhận thấy rằng Mỹ, tức tổng thống NIXON không thực lòng mong muốn hòa bình nên vì thế đã không công bố ngày rút quân đội Mỹ.
Điều phải biết là nếu Mỹ chấp nhận “đề nghị 7 điểm” của VC thì cũng y hệt như Mỹ đã chịu thua VC, vả lại khi làm như vậy, Mỹ tức khắc công nhận trách nhiệm “gây hấn” và “Xâm lược” Việt Nam là do Mỹ, “qua một cuộc chiến đế quốc, tồi bại và phi nhân đạo”. Trong khi sự thật của lịch sử cho biết rằng điều đó hoàn toàn do trách nhiệm của CSVN và CS quốc tế, chính họ đã gây ra một cuộc chiến đế quốc, tồi bại và phi nhân đạo đối với miền Nam Việt nam, đối với VNCH, một quốc gia láng giềng. Chỉ để phục vụ cái nghĩa vụ quốc tế đối với Đệ Tam Quốc Tế CS, Nga và Trung Cộng.
Một đoạn khác của tài liệu 01, tức “bản thông cáo”, còn nói đến việc “chuẩn bị các công tác cho các phong trào phản chiến tại Mỹ sẽ thi hành vào mùa thu 1971”:
… Phải minh giải rành mạch rằng “đề nghị 7 điểm” không những giải quyết việc thả tù binh mỹ và nó cũng là phương cách tuyên truyền hiệu nghiệm khiến mọi người hăng hái, nhất là gia đình các tù nhân mỹ còn bị giam tại Bắc Việt, khiến họ tham gia các phong trào phản chiến tranh Việt nam …
Trích văn:
…The seven-point peace proposal ((of the SVN Provisional Revolutionary Government)) not only solved problems concerning the release of US prisoners but also motivated the people of all walks of life and even relatives of US pilots detained in NVN to participate in the antiwar movement
Trương Tấn Trung
22.10.2009
Bài 3: đối tượng và mục tiêu của Hà nội
Chiến tranh Việt nam và Thượng nghị sĩ Mỹ, John KERRY, một thời là ứng cử viên tổng thống Mỹ ( 2004 )
Khi đi sâu vào tài liệu 01 ( “bản thông cáo”, bắt được từ quân đội CS trước 1975) này , thì chúng ta thấy rõ ràng là Nguyễn thị Bình đã ra chỉ thị cho KERRY, chỉ vẽ đường lối cho ông ta, và xuyên qua ông ta, chỉ vẽ lại cho các phong trào phản chiến tranh Việt nam, chỉ vẽ những phương cách hữu hiệu nhất để phục vụ cho mục tiêu và quyền lợi của CS Hà nội, nhằm đánh phá sự yểm trợ của Mỹ đối với VNCH, trong các chiến dịch mùa Xuân và mùa Hè 1971, chiến dịch chủ đạo của VC sắp tới : “đề nghị 7 điểm cho hòa bình” của MTGP.
- Nhưng đâu là trọng tâm của VC và CSBV ? khi họ lèo lái các phong trào phản chiến tại Mỹ ?.
a/ Mục tiêu của họ không phải là “hòa bình”.
Ít ra là theo định nghĩa mà quần chúng Mỹ được hiểu, tức là các phe ngoại quốc lâm chiến tại Miền Nam Việt Nam phải rút quân, ngưng chiến, trước tiên là quân đội Bắc Việt, là quân đội xâm lược và sau đó đến quân đội Mỹ có mặt tại VNCH vì giúp VNCH chống lại CSBV xâm lược.
Mục tiêu của VC và CSBV là vận động khối cử tri Mỹ, lợi dụng thể chế dân chủ tại Mỹ, nhằm cắt đứt mọi viện trợ cho Miền Nam Tự Do, cắt đứt mọi sự yểm trợ cho VNCH.
Để đạt đến mục tiêu, CS đã cung cấp và nuôi dưỡng các phong trào phản chiến, cung cấp người, tin tức, hoạch định mục tiêu (như đã nói trên) và chỉ rõ đối tượng.
b/ Đâu là đối tượng của “kế hoạch hòa bình 7 điểm” của VC ?
Trong kế hoạch này CS đã hiểu và nhấn mạnh vào những liên hệ và những tác động hổ tương giữa sinh hoạt của các phong trào phản chiến tại Mỹ, sinh hoạt trong chính trường Mỹ (nhằm cô lập hóa Nixon-Thiệu với quần chúng), và sinh hoạt trong chính trường Miền Nam Việt Nam (nhắm gây khó khăn, chia rẽ trong chính trường VNCH, nhất là vào những dịp bầu cứ sắp đến).
Trích đẩn:
….. The Nixon-Thieu clique is very embarrassed because the sevenpoint peace proposal is supported by the SVN people's (( political struggle)) movement and the antiwar movements in the US. Therefore, all local areas, units, and branches must widely disseminate the seven-point peace proposal, step up the people's ((political struggle)) movements both in cities and rural areas, taking advantage of disturbances and dissensions in the enemy's forthcoming (RVN) Congressional and Presidential elections. They must coordinate more successfully with the antiwar movements in
the US so as to isolate the Nixon-Thieu clique…
the US so as to isolate the Nixon-Thieu clique…
-- Circular on Antiwar Movements in the US. "RVN" refers to the Republic of Vietnam, the government in South Vietnam supported by the US.
c/ Đối tượng và mục tiêu chánh của CS là: gia đình của các tù binh Mỹ
Vào cuối năm 1970, một cán bộ CS chiêu hồi đã nói đến kế hoạch của CS, nhắm vào việc xử dụng các người thân cộng tại Mỹ nhằm kết nạp các gia đình tù binh Mỹ bị giam tại Bắc Việt, như được đề cập trong bài trích dẫn dưới đây, công bố bởi Ũy Ban Ngoại Giao Quốc Hội Mỹ:
… The Viet Cong plan to continue their efforts to win worldwide opinion to their side and to solicit as much material support for the VC struggle as possible from other countries in order to create a favorable climate for the VC at the Paris Peace Conference.
The Viet Cong will continue to promote domestic unrest against the war in the United States in order to speed withdrawal of US troops and create pressure for an end to the war.
Efforts will be directed toward the US soldier in Vietnam to demand that they be returned to the US and be reunited with their families and wives ...
… The VC will strive to create anti-draft and anti-war attitudes in the US by organizing VC sympathizers in the US to contact families with sons in Vietnam and urge them to call their sons home. Also VC sympathizers in the US will be organized to distribute anti-draft leaflets to students and young people. ….
The Viet Cong will continue to promote domestic unrest against the war in the United States in order to speed withdrawal of US troops and create pressure for an end to the war.
Efforts will be directed toward the US soldier in Vietnam to demand that they be returned to the US and be reunited with their families and wives ...
… The VC will strive to create anti-draft and anti-war attitudes in the US by organizing VC sympathizers in the US to contact families with sons in Vietnam and urge them to call their sons home. Also VC sympathizers in the US will be organized to distribute anti-draft leaflets to students and young people. ….
Vào ngày 1 tháng 2 năm 1971, tại thị xã Detroit, nhân dịp phát động một chiến dịch phản chiến “Winter Soldiers Investigation”, phong trào VVAW đã công bố bài phát biểu của bà Virginia Warner, bà này là mẹ của tù binh Mỹ có tên là Jim Warner. Bà đã kêu gọi TT Nixon “hãy ngưng chiến, THÌ CÁC TÙ BINH MỸ MỚI ĐƯỢC THẢ VỀ”.
Sau này chính người con, cựu tù binh Mỹ, tức ông Jim WARNER, đã lên tiếng để tố cáo việc khai thác mẹ của mình, bởi vì chính Tns KERRY , đã thừa cơ hội, lợi dụng sự lo ngại của một bà mẹ đối với con mình đang bị bẳt giam, để buộc bà mẹ viết những lời phát biểu nói trên.
Ngày 22 tháng 7 năm 1971, trong một buổi họp báo tại thủ đô Washington, TNS KERRY công bố lời kêu gọi TT Nixon, nói TT Nixon hãy chấp nhận “kế hoạch hòa bình 7 điểm” của Nguyễn thị Bình. Nhân dịp này KERRY đã phối trí xung quanh mình nào là các bà mẹ, các chị em, các bà vợ của tù binh Mỹ, nhằm cỗ võ cho lời kêu gọi của mình. Hình và bài đã được đăng trong báo "New York Times" , 23/ 07/ 1971, và đặc biệt trên báo Cộng sản “The Communist Daily World” ngày 24/ 07/ 1971.
KERRY đã trực tiếp xử dụng các gia đình của các tù binh Mỹ để yểm trợ các bước đi của CS, như đã được nhắc đến trong các tài liệu lấy được từ cộng quân năm 1971, nhất là tài liệu 01 “ bản thông cáo”.
Ngoài ra, một số các gia đình Tù binh Mỹ, đã được một nhóm “giao liên”, đứng đầu là cô Cora Weiss, con gái của tài phiệt công sản Samuel Rubin. Khi được tiếp xúc, nếu các gia đình tù binh Mỹ chịu yểm trợ cuộc phản chiến, thì họ sẽ được phép nhận thơ và tin tức của thân nhân đang bị giam bởi CSVN. Nhưng sự yểm trợ của họ phải là một sự yểm trợ công khai, chống Mỹ chiến đấu giúp cho VNCH.
Và điều rất là hay, rất lấy làm hãnh diện là đại đa số các gia đình tù binh Mỹ đã TỪ CHỐI, đã BÁC BỎ các điều kiện đưa ra, khi họ được tiếp xúc. Một trong các điều kiện đó, có nói đến việc các tù binh sẽ bớt bị đẩy đọa nếu gia đình họ chịu nghe và chịu làm theo như các phe phản chiến muốn.
4 người vợ chiến sĩ tù binh Mỹ, đã tố giác rằng KERRY đã lợi dụng họ, để tiến thân trên chính trường bằng cách khai thác những nổi thống khổ của họ.
Trương Tấn Trung
Ngày 29.10.2009
Ngày 29.10.2009
…( còn tiếp )
Bài 4 : những người Bạn Việt của CSVN tại Mỹ
- John KERRY, một thời là ứng cử viên tổng thống Mỹ ( 2004 )
Lãnh tụ của phong trào nhân dân liên hiệp đòi hòa bình và công lý, (People coalition for peace and justice, PCPJ) cũng như của VVAW, (Vietnam veteran anti war).-Thích Nhất Hạnh.
-Võ văn Ái.
-Huỳnh tấn Mẫm.
-Đỗ Hoàng Điềm, chủ tịch đảng Việt Tân ( Tinparis chú thích : Băng Đảng Việt Tân )
- Năm 2002,
Nhưng Thượng viện Mỹ đã không có cơ hội duyệt xét dự luật này.
Trong suốt mấy năm, nó đã bị chôn cất bởi Ủy ban Tuyển lựa của Thượng viện về các tù binh Mỹ và các người mất tích khi thi hành công vụ, (POW/MIA) .
Nó đã không được đưa lên Thượng viện Mỹ để biểu quyết vì người bạn Mỹ của VC tại Mỹ đã tìm cách giết nó, đó chính là TNS John Forbes Kerry, chủ tịch của Ủy ban.
- Năm 2008,
Trong bài nói chuyện trước ( bài số 1 ) , đã nói đến buổi họp điều trần về nhân quyền tại Việt Nam diễn ra vào đầu năm 2008 tại thượng viện, lúc đó TNS John KERRY ( đảng dân chủ ) không còn là chủ tịch nữa mà đã thay phiên qua nghị sĩ khác tức là bà TNS Barbara BOXER.
Trong phiên họp kỳ này, năm 2008, có sự hiện diện của ông TNS dân chủ Jim WEBB.
Khác với TNS KERRY, ông Jim WEBB, tuy là cùng đảng dân chủ, nhưng lại rất ưu ái đến tình trạng các quân cán chính của VNCH còn đương bị CSVN thống trị qua chính sách « phân biệt đối xử », ông tỏ ra quan tâm về chính sách kỳ thị này , về cách đối xử bất công của CSVN đối với các quân cán chính của quân lực VNCH còn sống tại Việt Nam.
Và ông phải sững sốt và kinh ngạc khi nghe những lời lẽ của ông Đỗ Hoàng Điềm (ĐHĐ), chủ tịch ( Băng) đảng Việt Tân, khi ĐHĐ được hỏi về hiện trạng (năm 2008) của chính sách « phân biệt đối xử » đó của CSVN.
Những chữ ông ĐHĐ dùng để trả lời là : « … fade away… », muốn nói rằng sự kiện đó đã hầu như không còn nữa từ thập niên 90. (Xin xem chú thích ở cuối bài)
Khoảng cách từ 2002, khi dự luật về nhân quyền tại Việt Nam chớm nở tại Hạ viện Mỹ, đến năm 2008 khi lên đến Thượng Viện Mỹ là 6 năm, thời gian này đã cho phép Cộng Sản Việt Nam dàn dựng một số kịch bản thích hợp, để ông ĐHĐ có cơ hội phát biểu : « … fade away … ».
Những lời ĐHĐ nói ra, như muốn « khép lại quá khứ », như muốn thế lời (?) kết luận tốt cho kịch bản của CSVN
Những lời này đáng được ghi vào lịch sử đấu tranh của ... những ai đã và đang lên tiếng biện hộ, bào chữa, bênh vực cho CSVN và chế độ toàn trị của nó.
Trong đó có các người bạn Việt của VC tại MỸ, ít ra là hai người còn đương mang phẩm chất công dân Việt Nam Cộng Hòa, điển hình là ông Võ vãn Ái, và một người thứ hai được biết đến dưới pháp danh: Thích Nhất Hạnh.
Dĩ nhiên, cũng có các người bạn Việt của CSVN tại Việt Nam Cộng Hòa, điển hình như Huỳnh tấn Mẫm, nhân danh và đại diện cho sinh viên Miền Nam, đã ký kết với các phong trào phản chiến Mỹ, đặc biệt qua lá thư lên án VNCH, kêu gọi nhân dân Mỹ bỏ VNCH. Cậu sinh viên y khoa, Huỳnh tấn Mẫm đã đưa lá thư đó cho Don Luce cầm tay đem về Mỹ để trao lại cho các phong trào phản chiến. (Huỳnh tấn mẫm đã ký vào cái « joint treaty of peace, between the people of the united states, south Vietnam and north Vietnam » mà J. KERRY là người đầu tàu)
Hiện nay, các phong trào phản chiến chống chiến tranh VN tại Mỹ vẫn còn đang hoành hành và vẫn còn có thế lực, vẫn còn có tác dụng, như sư kiện TNS KERRY ra công che dấu, đình trệ để một dư luật bất lợi cho CSVN không được Thượng viện MỸ duyệt xét vào đúng thời điểm.
Những loại người, những loại phong trào như thế, chúng ta cũng đã từng thấy tại Mỹ, qua vai trò chủ yếu của Thích Nhất Hạnh ( thành phần thứ 3) , hỗ trợ cho phong trào phản chiến chống chiến tranh Việt Nam mà thủ lãnh là TNS J. KERRY, vào những năm từ 65 đến 75, với phong trào nhân dân liên hiệp đòi hòa bình và công lý, (People coalition for peace and justice, PCPJ) cũng như VVAW, ( Vietnam veteran anti war ).
Cái « công lý » mà những người này đòi hỏi,và TỎ VẺ THIẾT THA, lẽ ra họ phải tự áp dụng cho chính họ thì đó mới đúng là công lý, nhưng không, chuyện đó đã không hề xẩy ra … Tỵ nạn, thuyền nhân, các trại cải tạo, các sự giết chóc, nghèo đói, bất công, ... biết bao nhiêu là điều mà những nhà "công lý" đó không muốn biết đến hay biết đến mà cho rằng là không có ...
- Có ai trong bọn người này đã lên tiếng ?
Ngay như ông thiền sư TNH, nổi tiếng toàn cầu, cũng im miệng đồng lõa từ bao nhiêu năm nay, "ngài" thiền sư chỉ khai khẩu khi thấy quyền lợi của mình tại Việt Nam bị mất mát.
Sự dối trá không chịu đựng nổi sự thử thách của thời gian và lịch sử, cho nên,cũng như những thức ăn giả dối không thể nào tiêu hóa được, vì thế mà cơ thể đã phải nôn mửa ra trở lại.
Nhiều tài liệu, có được trong những năm chiến tranh, bắt được từ phe CS, từ tay đối phương, từ những năm 1971 , 1972, chính VC và CSBV, nói rõ sự liên hệ , sự yểm trợ của họ đối với phe phản chiến trong và ngoài Việt Nam, họ nói rõ sự phối hợp hành động, với các chiến hữu của thành phần thứ 3, các chiến hữu của " hòa bình ", các chiến hữu đòi hỏi Mỹ phải cút đi, để tiện đường cho CS xâm lăng miền Nam.
Chính TNS J. KERRY cũng không chối được trước những bằng cớ của FBI về mối liên hệ của ông với Bà Nguyễn thị Bình (NTB), ông đã qua Ba Lê để gặp NTB.
Ít ra là 2 lần trong những năm tháng vào lúc đương diễn ra cuộc hòa đàm Ba Lê, nhằm phối hợp hành động, Phe phản chiến hỗ trợ VC bằng cách gây áp lực tại nội địa xứ Mỹ.
Họ liên kết với các hiệp hội phản chiến khác như F.O.R, (the fellowship of reconciliation) phía Mỹ,
Phía người việt thì có ông Võ văn Ái (VVA)với những buổi thuyết trình, lưu diễn trên đất Mỹ, với đề tài mang tựa đề thời cơ: « people of Vietnam demand peace », và trong khi đó cơ quan F.O.R tạo cơ hội để gặp các dân cử Mỹ, thì là lúc VVA trổ tài triển khai các đề tài phản chiến, ngưng bắn, hòa bình, v.v ., còn Thích Nhất Hạnh (TNH) thì dốc lòng cung cấp những gì cần thiết cho các nhân vật phản chiến Mỹ như Don Luce, và các dân cử MỸ chống chiến tranh VNCH, với mục tiêu cắt bỏ viện trợ của Mỹ đối với VNCH.
Và người công dân Việt Nam Cộng Hòa thời ấy, tức ông Thích Nhất Hạnh, đạt thành công quả , sau khi đã dồn sức vào năm 1974 khi có cuộc biểu quyết liên hệ về ngân sách tại quốc hội Mỹ, tài khóa 1975 nhằm cắt bỏ viên trợ cho VNCH,
trích dẫn tài liệu yểm trợ của Thich nhât Hạnh, dưới danh nghĩa của phái đoàn Phật giáo Việt nam cho Hòa Bình
Các phe phản chiến đã thành công và đã đạt được mục tiêu của họ: tiêu diệt mọi nguồn trợ lực cho VNCH (đó cũng là mục tiêu chính của TNH, VVA, phe thành phần thứ 3, MTGP, VC và dĩ nhiên CSBV) và năm sau là năm của ngày 30 tháng 4/1975.
Đó là do công lớn của các phe phản chiến Việt ( tại quốc nội và quốc ngoại ) cũng như các phe phản chiến Mỹ, của những phe thành phần thứ 3, của những phe đòi hòa bình, đòi hỏi Mỹ cút đi, để cho CSVN rảnh tay xâm chiếm, thực hiện bá đồ của Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế. Họ đã có công lớn đối với CS xâm lược để thiết lập ngụy quyền công sản tại miền Nam.
Thiết nghĩ rằng Hà nội, CSVN, đã có tưởng thưởng các người bạn Mỹ của họ, như KERRY hay Jane FONDA tại viện bảo tàng những tội ác chiến tranh Mỹ-Ngụy.
Tổng bí thư Đổ Mười đã có lời ban khen rằng đảng CSVN đã thẳng thắn nhìn nhận rằng sự đóng góp của TNS J KERRY và phong trào phản chiến của ông như là một sự đóng góp trực tiếp, tối ưu, góp công vào thắng lợi 30 tháng 4/ 1975 của CSVN.
Thế sao Hà nội lại không nhắc đến những người bạn Việt phản chiến của mình, có phải như người ta thường nói rằng CS hay vắt chanh bỏ vỏ !
Vậy thì TẠI SAO ? lại có cái chính sách đãi ngộ « phân biệt đối xử » đối với cùng một công trạng, giữa những người bạn Việt và những người bạn Mỹ, cả hai đều có công lớn đối với chế độ CSVN ?
(Đối với những chuyện đã « đi vào quá khứ », CSVN vẫn cứ nói đi, nói lại là phải « khép lại quá khứ », phải chăng phải hiểu rằng, đó là khép lại quá khứ theo cách « phân biệt đối xử »)
Có hai câu trả lời về lối CS dùng để đãi ngộ các người bạn của mình: Việt hay ngoại quốc, trong hay ngoài nước.
1 / Chủ thuyết Cộng Sản là một thứ chủ thuyết vọng ngoại và ngoại lai, luôn cần đến ngoại bang, cái tên " Việt Gian Công Sản " là đúng tên gọi cho nó,
2 / Vì còn có chỗ dùng, nhằm duy trì chế độ nên mới còn nuôi dưỡng một số đối tác Việt ở ngoại quốc… hay ở quốc nội.
Trương Tấn Trung
Ngày 05.11.2009
Bài 5 : những người bạn của CSVN tại Mỹ Ngày 05.11.2009
-TNS John FORBES KERRY, một thời là ứng cử viên Tổng Thống Mỹ ( 2004 ).
- J Forbes Kerry, kẻ vẫn còn hổ trợ cho Việt gian Công sản., kẻ đã thiết kế cuộc tái lập bang giao Mỹ-Việt
Trong thập niên 80 và 90, J Kerry vẫn còn tiếp tục vai trò của mình: tức là phản bội lại chính nghĩa sự hy sinh của người dân Việt Nam Cộng Hòa, trong công cuộc đấu tranh tự vệ chống lại sự xâm lăng của công sản Hà nội nói riêng và công sản đệ tam quốc tế nói chung.
Cuộc đấu tranh của Việt Nam Cộng Hòa là để bảo vệ Tự Do, Độc lập, chống ngoại xâm, đó là những giá trị tinh thần trường cửu, nhưng đó không hề là những giá trị mà J Kerry cưu mang. J Kerry đã chọn những giá trị tinh thần đi ngược lại những gì vừa được nói, J Kerry đã chọn lựa ích kỷ, lợi danh và phản bội.
Vì thế những thế lực hỗ trợ cho CSVG tại Mỹ vẫn còn đắc lực.
Vào thời điểm sau 30 tháng 4 /1975, chủ tâm của chính quyền Hoa kỳ là làm áp lực đối với CSVG, buộc Hà Nội cung cấp đầy đủ tin tức về các Tù binh Mỹ và những người mất tích khi thi hành nhiệm vụ ( POW / MIA ) còn sót.
Chính quyền Hoa Kỳ xem đó như là điều kiện chính yếu cho sư tái lập bang giao Mỹ-Việt.
- Nhưng chuyện gì đã xảy ra ?
Năm 1991: J Kerry được đắc cử vào chức vụ chủ tịch Ủy Ban Thượng viện Mỹ, đặc trách về việc tìm hiểu, gom góp dữ kiện về POW / MIA.
Năm 1993: Ủy Ban này đã công bố kết luận như sau: … Không có gì, có thể chứng minh rằng hãy còn có POW / MIA tại Việt Nam.
Năm 1995: J Kerry , cùng với TNS John McCain (thuộc đảng cộng hòa), đã vận động giúp Tổng Thống Clinton nhằm tái lập bang giao với VN.
Và cuối năm, vào ngày 11 tháng 7 năm 1995, dựa theo một quyết nghị do Kerry và McCain đưa ra, Clinton đã công bố việc tái lập bang giao với Việt Nam.
- Đây là những điểm đáng lưu tâm trong diễn trình đưa đến kết quả quan trọng nói trên trên:
1/ Bảng báo cáo của J Kerry, về POW / MIA , tại Thượng viện Mỹ, ghi rõ ràng rằng các cuộc thảo luận với CSVG về tù binh mỹ ( POW ) đã được khởi xướng từ những thập niên 60 và 70, do công lao của các nhóm phản chiến, trong đó có Ủy Ban Giao Liên giữa các gia đình tù binh (Committee of Liaison with Families of Servicemen Detained in North Vietnam (COLIFAM)), mà 2 người đồng chủ tịch là David Dellinger và Cora Weiss.
2/ Bảng báo cáo này đã che dấu vai trò tiếp tay cho CSVG của Ủy ban nói trên. Bởi vì Cora Weiss và cơ quan COLIFAM đã có hợp tác với Hà Nội và các tổ chức phản chiến của J Kerry (VVAW) đều có liên hệ với CSVG.
Những công việc đắc lực nhất mà COLIFAM và VVAW đã làm, chỉ là những chuyện tồi bại như:
- lấy tù bình làm con tin để ép gia đình các tù binh phải ra công làm áp lực chính trị với NIXON nhằm chấm dứt sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam, chấm dứt viện trợ cho VNCH, rút quân đội Mỹ khỏi VNCH.
- Họ mặc nhiên chấp nhận sự hiện diện của quân đội xâm lăng Cộng sản Bắc Việt trên lãnh thổ VNCH.
- làm theo lời hứa của các nhóm này thì tù bình sẽ được sớm trở về sum họp với gia đình, và sẽ bớt bị đầy đọa trong tù CS.
- Các lãnh tụ của VVAW, của COLIFAM đã từng đến tận Hà Nội , trong thời kỳ chiến tranh để họp chung với CSVG.
3/ J KERRY đã hứa rằng nếu Mỹ muốn biết nhiều hơn về các POW và MIA, thì phải tỏ ra có nhiều thiện chí xích lại gần với VN, tức là tái lập bang giao.
4/ Trong trách vụ của Ủy Ban nói trên, J Kerry đã từng lũng đoạn các nhân chứng cựu tù binh, đã không trưng ra 1 số tài liệu, đã hủy hoại hay giả mạo 1 số tài liệu,
5/ Người trưởng ban lo về POW và MIA tại Ngũ Giác Đài, Đại Tá MILLIARD Peck, phải từ chức, vì nhận thấy rằng tài liệu và dữ kiện đã bị giấu nhẹm ở mọi cấp bực
J Kerry đã đạt được mục tiêu ... cho CSVG:
Và cuối cùng, J Kerry đã làm được việc cho CSVG, vì sự bang giao Mỹ-Việt (cộng) đã đến, mà không hề biết được gì thêm về tù binh còn sót lại, các POW và MIA đã bị đưa vào quên lãng.
J Kerry đã đạt được mục tiêu cho chính mình, đây là phần thưởng của J FORBES KERRY, gọi đúng tên thì phải viết thêm chữ FORBES:
Năm 1992, Kerry có làm 1 bài báo cáo đặc biệt, ứng trước sự tái lập bang giao Mỹ-Việt sắp đến, thuận lợi cho quyền lợi của mình.
Nhờ vậy mà một ngân khoảng 905 triệu Dollar đã được tức khắc tháo ra, qua ngõ một công ty tại BOSTON, đã có được đặc quyền, và độc quyền đầu tư vào làm ăn với CSVG trong ngành địa ốc tại Việt Nam. ….. trong khi chờ đợi việc Mỹ sẽ tái lập bang giao với Việt Nam ( vào năm 1995)!!!
Đó là công ty COLLIERS International. Công ty này được chỉ huy bởi C. Steward FORBES, một người anh bà con với TNS John FORBES Kerry.
Bên cạnh công ty này, còn có 1 công ty phụ thuộc, Spauding and Slye COLLIERS, đã từng trao tặng 100 000 Dollar cho đảng Dân chủ qua dịp tổ chức đại hội đảng tại BOSTON, cũng là nơi cư trú của TNS John FORBES Kerry. ( xin xem phần phụ lục anh ngữ )
Trương Tấn Trung
Ngày 26.11.2009
Ngày 26.11.2009
…( còn tiếp )
- Phụ lục .
The year after his committee’s vote to give Communist Vietnam a clean bill of health, the strangest thing happened. In December 1992 Vietnam signed its first huge commercial deal worth at least $905 million to develop a deep-sea commercial port at Vung Tau to accommodate all the trade that was to come. It signed the deal with a company called Colliers International. At the time, the Chief Executive Officer of this company was C. Stewart Forbes. Name sound familiar? It should. He is Senator John F. Kerry’s cousin. What a coincidence!
Less widely noticed, when the Democratic Party decided to give Kerry a leg up towards its presidential nomination by holding its 2004 National Convention in Boston, certain big corporations rushed to pony up money for the Democratic event. One of the first of these rushing to fill Democratic coffers was Spaulding & Slye Colliers, the current corporate partnership involving Colliers International, which anted up $100,000.
The Boston press sniffed at how this and other companies with business pending before the Democrat-dominated city might be trying to curry favor or satisfy politician demands for money.
Less widely noticed, when the Democratic Party decided to give Kerry a leg up towards its presidential nomination by holding its 2004 National Convention in Boston, certain big corporations rushed to pony up money for the Democratic event. One of the first of these rushing to fill Democratic coffers was Spaulding & Slye Colliers, the current corporate partnership involving Colliers International, which anted up $100,000.
The Boston press sniffed at how this and other companies with business pending before the Democrat-dominated city might be trying to curry favor or satisfy politician demands for money.
Source : http://97.74.65.51/readArticle.aspx?ARTID=14402 FrontPage.com
Bài 6: những người bạn của CSVN tại Mỹ
-TNS John FORBES KERRY, một thời là ứng cử viên Tổng Thống Mỹ ( 2004 ).
- J Forbes Kerry, kẻ vẫn còn hổ trợ cho Việt gian Công sản., kẻ đã thiết kế cuộc tái lập bang giao Mỹ-Việt
Hội phản chiến chống chiến tranh Việt Nam:
- VVAW: hội cựu chiến binh chống chiến tranh
- PCPJ: ủy ban quốc dân liên hiệp đấu tranh cho hòa bình và công lý
Tài liệu 02, (đã được công bố trong những bài trước) còn có tên khác là " Chỉ thị" vì đó là những chỉ thị của VC nhằm yểm trợ các cuộc dấy động phản chiến trong nội địa Mỹ.
Trong các tài liệu bắt được bởi quân đội tại chiến trường miền Nam Việt Nam , tài liệu 02, lấy được từ cộng quân ngày 12 tháng 5/1972, cho biết các chỉ thị của đảng cộng sản, nhằm mục đích nâng cấp các sinh hoạt của những phong trào phản chiến tại Mỹ chống lại cuộc chiến tại Việt Nam.
Đoạn 5 của tài liệu 02, đã viết rõ các công tác mà CSVG trông đợi nơi các hội phản chiến Mỹ, VVAW và PCPJ, đó là vận động tuyên truyền chống chính phủ VNCH, qua ngã vận động cử tri đoàn công dân Mỹ với mục tiêu cắt viện trợ của Mỹ đói với VNCH và buộc Mỹ phải rút quân.
Điều được viết trong tài liệu 02, sẽ diễn ra tại Mỹ vào ngày 19/4 đến 22/4 năm 1971, thời điểm này trùng hợp với cuộc biểu tình vĩ đại mà phe phản chiến và Kerry tổ chức, đó là chiến dịch phản chiến DEWEY CANYON 3, tại Hoa Thịnh Đốn.
Vào dịp này, KERRY đã lên đài truyền hình kêu gọi phản chiến, Kerry đã xuất hiện cùng một lượt với TNS FULBRIGHT, một người chủ chốt (có lập trường phản chiến) trong Ủy ban ngoại giao Thượng viện Mỹ.
Trong tài liệu 02, cũng đã nói đến một việc khác, biểu tượng rất mạnh cho ý đồ phản chiến, đó là các cựu chiến binh trong VVAW hãy vất trả lại các huy chương đã có được khi tham gia trong chiến cuộc tại Việt Nam, và họ đã vứt bỏ các huy chương đó vào Tòa Nhà CAPITOL, tại Hoa Thịnh Đốn, ( chiến dịch return the medals)
- - Công tác nối giáo cho giặc ( VC ) của Kerry và của hội phản chiến PCPJ ( The People's Committee for Peace and Justice ).
Điểm quan trọng nào của tài liệu 02 đã vạch ra cho chúng ta thấy rõ?
Đó là mức độ làm việc chung của VGCS với PCPJ và Kerry. Điều đó, đã từng được nhấn mạnh trong tài liệu 01 (công bố trong các bài trước đây), đó là việc liên lạc với phái đoàn VC tại cuộc bàn thảo hiệp định BA LÊ, để nhận cách chủ đạo cho các phong trào phản chiến:
Trích dẫn tài liệu của VC:
"…Of the US antiwar movements, the two most important ones are: The PCPJ ((the People's Committee for Peace and Justice)) and the NPAC ((National Peace Action Committee)). These two movements have gathered much strength and staged many demonstrations. The PCPJ is the most important. It maintains relations with us. …"
( … về các phong trào phản chiến, có hai tố chức quan yếu, đó la PCPJ và NPAC. Hai tố chức này đã biểu dương sự vững mạnh của họ. Tổ chức PCPJ là quan trọng hơn hết, họ giữ liên lạc với chúng ta …)
( … về các phong trào phản chiến, có hai tố chức quan yếu, đó la PCPJ và NPAC. Hai tố chức này đã biểu dương sự vững mạnh của họ. Tổ chức PCPJ là quan trọng hơn hết, họ giữ liên lạc với chúng ta …)
- - những điểm cần biết khác:
- Trong bảng báo cáo của Sở nội an Mỹ vào năm 1971, đã có mô tả về tổ chức PCPJ, như là một tổ chức được kiểm soát chặt chẽ bởi đảng CS Mỹ. kể cả vai trò lãnh đạo tư tưởng cho hội PCPJ (a guiding influence, in the evolution and formation of policies of the Peoples' Coalition for Peace and Justice)
- Tài liệu giải mật của FBI gần đây cũng đã xác định mối liên hệ qua các cuộc gặp gỡ giữa Nguyễn thị Bình, Kerry và Al Hubbard, (bí thư hội VVAW), hội VVAW, hội PCPJ.
- Chính Al Hubbard (lãnh tụ của VVAW), và các thành phần cực đoan gần gũi với nhóm cực tả BLACK PANTHER và PCPJ, đã kết nạp Kerry,
- Cũng chính Al Hubbard là người đã khai gian rằng mình là một phi công đã từng bị thương nơi trận tuyến, và đã bị lộ tẩy qua một cuộc điều tra của bộ Quốc phòng.
- Dù như thế, cặp bài trùng Kerry/ Al Hubbard luôn luôn cộng tác chung và luôn luôn đi đôi với nhau.
- Tài liệu giải mật của FBI ngày 24 tháng 11/1971, đã nói đến một buổi họp nội bộ ban lãnh đạo VVAW, do Al Hubbard điều động tại Kansas city, Missoury, vào cuối tuần ngày 12 và 15 tháng 11 năm 1971, trong buổi họp này, với sự hiện diện của Kerry, họ đã nghiên cứu và tìm cách nào để ám sát vài thượng nghị sỹ Mỹ có lập trường yểm trợ cho VNCH và cuộc chiến chống CS Bắc Việt xâm lăng.
- Theo sự tiết lộ của Al Hubbard, VC đã chính thức mời đại diện của VVAW (là Al Hubbard), đại diện của đảng CS Mỹ và đại diện của một nhóm khuynh tả đến họp tại BA LÊ, và mọi chi phí được đảng CS Mỹ tài trợ.
- - VVAW và CSVG, chiến đấu chung trong tình hửu nghị
Nhằm cô lập hóa VNCH trên chính trường quốc tế trong chủ trương tự vệ của VNCH chống lại CS , hội VVAW đã làm việc phù hợp theo chủ trương của CS, vì vậy VVAW đã đưa ra 1 thông cáo vào tháng 7/1971, là từ bây giờ trở đi không được dùng từ ngữ "việt cộng" để chỉ định MTGP, hay CSBV đối với Bắc Việt, mà phải nói, hay viết thế vào đó là "chính phủ cách mạng lâm thời" và "cộng hòa dân chủ Việt Nam".
(Xem bài trích dẫn dưới đây , theo văn thơ của VVAW)
Đó, chỉ là cốt để xiển dương chiêu bài bịp bợm "giải phóng và thống nhất", trong cái nhìn của quốc tế và nhất là trong dư luận của quần chúng Mỹ.
Qua công việc này, họ đã bộc lộ ra ý đồ lường gạt dư luận khi nói rằng không hề có 2 xứ Việt Nam, một xứ Việt Nam Cộng Sản, tức Bắc Việt và một xứ Việt nam Tự Do không Cộng Sản tức Việt Nam Cộng Hòa, mà chỉ có 1 xứ Việt Nam, và tại miền Nam Việt Nam, cuộc chiến dành đôc lập đươc lãnh đạo bởi MTGP, nhưng chưa được giải phóng, mà kẻ xâm lăng … chính là Mỹ và tay chân là VNCH !!!
Trương Tấn Trung
Ngày 04.12. 2009
Bài 7: những người bạn của CSVN tại Mỹ - Những kẻ không bao giờ biết hối hận …
-Thượng nghị sĩ Mỹ, John KERRY, một thời là ứng cử viên tổng thống Mỹ ( 2004 ).
-Jane Fonda
Vào năm 1985, trong một trang hồi ký, Võ Nguyễn Giáp đã viết : « … nếu không có những tổ chức như loại tổ chức mà Kerry lãnh đạo (VVAW) thì Hà nội đã phải đầu hàng … »
Đó không phải là những nhận xét riêng do một tướng CS phát biểu, mà còn có nhiều người khác phía CSVG, cũng đã lên tiếng trong một chiều hướng đó.
Vào ngày tiếp đón Kerry, Chính Tổng bí thư Đổ Mười đã ra nghênh tiếp, tại viện bảo tàng chứng tích chiến tranh Việt Nam ( cũng còn được gọi là viện bảo tàng những tội ác chiến tranh Mỹ-Ngụy ) để nói lên những lời tương tợ.
Một ví dụ khác đó là cuộc phỏng vấn Bùi Tín trên báo Wall Street Journal,
- Qua câu hỏi rằng, phong trào phản chiến tại Mỹ, quan trong thế nào cho thắng lợi của CS ? , thì Bùi Tín đã trả lời, không do dự, rằng :
-
« …Điều đó là điều cốt yếu trong chiến lược của chúng tôi. Phía yểm trợ chiến tranh của chúng tôi (Trung cộng và Nga) thì hoàn toàn bền vững trong khi về phía yểm trợ chiến tranh của đối thủ (VNCH) thì sự yểm trợ (của Mỹ) lại bị yếu thế. Hằng ngày ban lãnh đạo của chúng tôi đã đón nghe đài phát thanh vào 9 sáng, để theo dõi sự tăng trưởng của phong trào phản chiến. Những chuyến thăm viếng Hà Nội bởi những người như Jane Fonda đã đem lại cho chúng tôi niềm tin rằng chúng tôi còn có cơ hội lật ngược chiến cuộc chuyển bại thành thắng, Chúng tôi lấy làm hứng khởi khi nghe cô Jane Fonda … nói trong một buổi họp báo ràng cô lấy làm tủi nhục về những gì người Mỹ đã làm và cô ước ao đấu tranh cùng với chúng tôi ….»
- qua câu hỏi : « Thế bộ chính trị có quan tâm đến các cuộc thăm viếng kiểu như vậy ?- Bùi Tín : «… rất lưu tâm… »
-
Tại sao ? - Bùi Tín nói: « …những loại người đó tượng trưng ít nhiều cho lương tâm của xứ Mỹ, đó cũng là tiềm năng chiến đấu của Mỹ, và chúng tôi đã xoay hướng sức mạnh đó khiến nó thuận lợi theo ý muốn của chúng tôi. Mỹ đã thua vì dân chủ, vì các dị kiến và phản đối, đã làm cho Mỹ mất đi cái khả năng huy động lòng người để chiến đấu… »
Trong những bài trước đây, chúng tôi đã nói đến sự « không hối hận » của Kerry sau chiến cuộc Việt Nam, thế còn cô Jane Fonda thì sao ?
Xin trả lời là cũng như Kerry , Jane Fonda đã : « Không hối hận »
Một người đã cùng với chồng đi ra Bắc Việt năm 1972 , nhằm hổ trợ cho VC, (chồng cô Fonda là ông Tom Hayden lãnh tụ đảng CS Mỹ, cả hai vợ chồng hoàn toàn yểm trợ và dấn thân trong phong trào phản chiến, VVAW cũng như yểm trợ cho Kerry). Cô đã chụp hình tại Bắc Việt, chung với Bộ Đội Bắc Việt, đầu đội nón cối, ngồi chỗ xạ thủ súng phòng không.
- Những lời hối hận giả dối của Jane Fonda :
Những lời phát biểu của cô không bao giờ là những lời xin lỗi, vì đó chỉ là những lời lẽ gượng gạo thót ra để mua chuộc vài ngày bình yên nhằm quay cho xong cuốn phim còn dang dở, đó chỉ là những thủ đoạn cầu an để kiếm cơm (cô có ý định xoa dịu sự phẫn nộ của các cựu chiến binh Mỹ tại địa phương (New England) mà thôi ...)
Những lời lẽ « hối cãi » sau mười sáu năm suy tư ( ?) về « lỗi lầm của mình » , những lời cáo lỗi đáng ngờ vực, để rồi sau đó ít lâu , khi đã được việc cho mình, cô nói đã nói ngược lại rằng, cô rất hãnh diện về những gì cô đã làm trong thời gian chiến tranh Việt Nam:
Trong thời chiến tranh VN, ngày 21 tháng 11 1970, tại viện đại học Michigan trước 2000 sinh viên Jane Fonda đã nói : « … Nếu quý bạn hiểu thế nào (thực sự) là công sản, thì các bạn bạn sẻ ước nguyện, thì các bạn sẻ quỳ xuống mà cầu nguyện để có ngày được trở thành công sản ». Tai viên đại học DUKE, North Carolina, cô đả lập lại những gì cô đả phát biểu tại Michigan, và còn nói thêm : « …Tôi, một người của xã hội chủ nghĩa nghỉ rằng chúng ta phải vương tới xã hội chủ nghĩa, con đường tất yếu dẫn đến công sản… »
« …On November 21, 1970 she told a University of Michigan audience of some two thousand students, "If you understood what communism was, you would hope, you would pray on your knees that we would some day become communist." At Duke University in North Carolina she repeated what she had said in Michigan, adding "I, a socialist, think that we should strive toward a socialist society, all the way to communism. " Washington Times July 7, 2000
Tuy nhiên, không phải ai cũng giống với những Jane Fonda, Kerry, Thích Nhất Hạnh, Don Luce, Võ văn Ái và các nhóm phản chiến Mỹ cũng như Việt, kể cã các nhóm gọi là Thành Thứ Phần Thứ Ba, mù quáng và phản bội Việt Nam, VNCH
Trong những người bạn của CS tại Mỹ, có người đã thức tỉnh ….
Trương Tấn Trung
Ngày 17.12. 2009
Ngày 17.12. 2009
…( còn tiếp )